Tên di sản : Phủ Tuế
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : số 2995/QĐ-UBND
Giới thiệu
Trước đây, phủ được cấu trúc theo kiểu chữ Đinh (J) gồm nhà Tiền đường với ba gian hai chái và một gian Hậu cung. Hai bên phía trước phủ còn có hai dãy nhà Tả vu và Hữu vu trong một diện tích khoảng 2000m2. Tả vu là nơi để kiệu và các đồ tế khác, Hữu vu là nơi để nhân dân đến lễ sắp lễ.
Trước đây, ở địa bàn phủ có ba cây cổ thụ là cây Gạo, cây Thị và cây Khổ Lỗ nên đã tạo cho không gian nơi đây sự thâm nghiêm, u tịch. Tuy nhiên, sau khi phủ bị phá hủy, ba cây cổ thụ này cũng không còn nữa.
Theo cụ Đoàn Xuân Hựu sinh năm 1922, thôn 2, làng Nhật Tân cho biết: Hằng năm, nhân dân trong làng tổ chức tế lễ ở phủ rất lớn. Lễ thường diễn ra trong 3 ngày, từ ngày mồng 3 đến ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch.
Đến năm 1992 của thế kỷ trước, phủ được tôn tạo lại với kết cấu kiến trúc khung gỗ, mái lợp kè nhưng do quá trình thiên nhiên phá hoại cũng như ý thức của nhân dân địa phương, một lần nữa bị phá hủy. Năm 2005, phủ tiếp tục được tôn tạo lại nhưng vẫn còn mang tính chất tạm bợ.
Kiến trúc phủ hiện nay:
Năm 2009, bằng tấm lòng hảo tâm của nhân dân thôn Nhật Tân nói riêng, nhân dân xã Thanh Thủy, huyện Tĩnh Gia nói chung cũng như con cháu thập phương gần xa, phủ đã được tôn tạo lại ngay trên nền đất cũ.
Về không gian kiến trúc phủ gồm có các công trình chính sau:
Cổng phủ: Hiện chưa được tôn tạo lại do chính quyền địa phương đang trong quá trình quy hoạch tổng thể phục vụ việc tôn tạo lại phủ.
Sân phủ: Được láng bằng xi măng cát và vôi vữa có kích thước chiều dài là 7,2m; chiều rộng 4,9m, xung quanh có tường thấp bao bọc. Ở đây có đặt một bát hương thờ lộ thiên.
Phủ chính:
Về quy mô, cấu trúc: Phủ Tuế hiện tọa lạc trên một khu đất cao ráo, rộng rãi và thoáng mát nhìn về hướng Nam. Phía bắc giáp sân vận động thôn; phía nam giáp đường đi; phía đông giáp ruộng; phía tây giáp lăng mộ Phạm Nhị Lang có cấu trúc theo kiểu hình chữ Tam gồm có Tiền đường, Trung đường và Hậu cung.
Tiền đường: là một ngôi nhà gồm ba gian có kích thước chiều dài là 5,35m; chiều rộng 4,2m (trong đó hiên rộng 1,25m), với tổng diện tích là 22,47m. Vì kèo được làm bằng ống nước nhựa tròn màu xám, mô phỏng theo kiểu vì kèo suốt. Tất cả đòn tay, rui, mè đều được làm bằng luồng ngâm, mái lợp ngói tây. Giữa bờ nóc được trang trí một đầu hổ phù đỡ mặt nhật, hai bên có đôi rồng chầu vào. Hai phía của bờ nóc được đắp đấu trụ vuông. Đây là nơi để nhân dân và khách thập phương tế lễ.
Trung đường: là một ngôi nhà 3 gian có kích thước chiều dài là 4,2m; chiều rộng 3,0m, với tổng diện tích là 12,6m2. Cũng như nhà Tiền đường, vì kèo của nhà Trung đường được làm bằng ống nước nhựa tròn màu xám, đòn tay, rui, mè đều được làm bằng luồng ngâm, mái lợp ngói tây. Vì kèo ở đây cũng được làm theo mô phỏng theo kiểu vì kèo suốt.
Bài trí thờ nhà Trung đường:
Gian bên hữu là nơi phối thờ Cao Sơn thượng đẳng thần gồm có 01 ban thờ gỗ, 01 ngai thờ, 01 bài vị bằng gỗ, 03 đài nước, 01 chân nến, 01 mâm bồng.
Gian bên tả là nơi phối thờ Thành hoàng làng Phạm Nhị Lang gồm có 01 ngai thờ + bài vị, 01 mâm bồng, 01 chân nến, 01 hương án gỗ.
Hậu cung: là một ngôi nhà gồm 1 gian có kích thước chiều dài là 1,8m, chiều rộng 1,2m, tường xây bằng gạch, mái lợp ngói bò. Vì kèo, rui, mè, đòn tay đều được làm bằng luồng ngâm.
Bài trí đồ thờ:
Nhà Trung đường: Gian bên hữu là nơi phối thờ Cao Sơn thượng đẳng thần gồm có 01 ban thờ gỗ, 01 ngai thờ, 01 bài vị bằng gỗ, 03 đài nước, 01 chân nến, 01 mâm bồng.
Gian bên tả là nơi phối thờ Phạm Nhị Lang gồm 01 ngai thờ + bài vị cổ, 01 mâm bồng cổ, 01 chân nến, 01 hương án gỗ.
Bài trí nhà Hậu cung gồm có 3 lớp thờ.
Lớp trên cùng là nơi đặt 01 khám thờ bằng gỗ cổ được chạm khắc rất cầu kỳ, tỉ mỉ và công phu. Xung quanh khám đều được chạm nổi hình rồng mây, hoa lá cách điệu và hình mặt nhật. Đặc biệt, bốn góc phía trong của phần thân khám được trang trí bốn hình chữ Thọ khắc nổi. Phía trên của thân khám được trang trí một con chim phượng xen lẫn vân mây. Phần chóp của khám được trang trí một hình mặt nhật, hai bên có đôi rồng chầu vào.
Nhìn chung, những đề tài chạm khắc trên khám như: rồng, mây, chữ Thọ...đặc biệt là hình tượng chim phượng (còn gọi là Phụng) là một trong “tứ linh” theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam và các nước Á Đông khác. Chim phượng được coi là một trong những hình tượng của bậc thánh nhân và nếu như hình tượng con rồng mang dương tính thì phượng mang âm tính nên chim phượng thường tượng trưng cho người phụ nữ cao quý. Cũng như long, ly, quy, chim phượng là một biểu tượng cao quý và thường hoàng gia hoặc tiên nhân mới được ví hay sử dụng.
Phía dưới khám thờ đặt một bát hương gốm cổ tráng men mà da lươn. Ở chính giữa mặt trước của bát hương được trang trí một hình chữ Thọ, dưới có đầu hổ phù đỡ. Bên trên chữ Thọ lại có một đầu hồ phù ngậm chữ Thọ, phía trên có trang trí một khung hình chữ nhật theo chiều ngang, bên trong hình chữ nhật có ghi bốn chữ “Thánh cung vạn tuế”. Xung quanh bát hương được trang trí hình rồng mây và hình mặt nhật; hai bên từ đáy lên miệng mỗi bên trang trí một con rồng vươn lên như kiểu đang thăng thiên. Miệng bát hương trang trí kiểu hình răng cưa tựa như những cánh sen; đế để thô không tráng men.
Ngoài ra, hai bên khám thờ còn có ba tấm biển bài gỗ cổ trong có hai tấm một mặt ghi “Thiên Tiên”, một mặt ghi “Thánh mẫu”, tấm thứ ba một mặt ghi “Thượng đẳng”, một mặt ghi “Tối linh”. Trong số ba tấm biển thì hai tấm có kích thước cao 74cm, rộng 32cm; một tấm cao 64cm, rộng 32cm. Cả ba tấm biển này đều được sơn son thếp vàng, hai mặt đều chạm nổi hình rồng mây cách điệu bên ngoài, trên gần chóp biển được trang trí một hình mặt nhật. Ở giữa biển bài được chạm nổi một khung hình chữ nhật theo chiều từ trên xuống, trong đó có hai biển được trang trí hình rồng mây cách điệu xung quanh các đường gờ chỉ, một biển chỉ trang trí các đường gờ chỉ. Phía trong hình chữ nhật là nơi để khắc chữ nổi của biển. Phần dưới của biển bài, hai bên của mỗi tấm biển được trang trí đối phương chầu cách điệu. Đây là nơi cung cấm thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Bệ thờ tiếp theo đặt 3 bát hương gốm.
Lớp dưới cùng đặt 01 mâm bồng gỗ cổ, 01 đôi chân nến gỗ, 01 đôi hạc gỗ, 01 hòm đựng sắc.
Ngoài ra, ngay phía dưới của ban thờ dưới cùng còn đặt 01 bát hương. Đây là nơi thờ thần Thổ địa.
Nhìn chung, Di tích Phủ Tuế mặc dù đã bị hủy hoại bởi nhiều nguyên nhân khác nhau qua thời gian nhưng đã được tôn tạo lại theo kiểu thức kiến trúc truyền thống và đang là nơi sinh hoạt tín ngưỡng quan trọng của nhân dân xã Thanh Thủy, huyện Tĩnh Gia cũng như nhân dân quanh vùng.
Di tích này cần được sự quan tâm hơn nữa của mọi tầng lớp nhân dân, chính quyền địa phương các cấp, bởi đây không chỉ có ý nghĩa về tín ngư���ng mà còn là nơi ghi lại dấu ấn về quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng dân cư ở đây trong lịch sử.
Các di vật, cổ vật trong di tích:
Binh khí gỗ; Trống da; Chiêng đồng; Tay kiệu gỗ; Đá lan giai; Hòm sắc; Khám thờ; Bát hương; Ống hương; Chân nến; Mâm bồng; Kiếm thờ; Đài nước…