Tên di sản : Nhà thờ Vương Đình chiểu
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3475/QĐ-UBND
Giới thiệu
Nhà thờ Vương Đình Chiểu nằm ở trung tâm làng Cổ Bản trong một không gian kiến trúc cao ráo, thoáng đãng, mặt trước ngoảnh về hướng nam hướng ra các làng cổ như Cổ Bản, Băng Sơn thuộc xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hoá. Thăm quan di tích theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình sau:
Bình phong: trước nhà thờ là bức bình phong được xây dựng theo hình cuốn thư. Đỉnh đắp mô típ trang trí hình “Lưỡng long triều nguyệt”, 2 cánh đắp văn toán tử, kiếm và bút, biểu hiện văn võ song toàn, chính giữa cuốn thư đắp chữ thọ tròn, có phù điêu và hình hoa lá trang trí ở diềm các cạnh.
Sân nhà thờ: là phần đất nằm trước bao gồm 2 khoảng, khoảng ngoài và phần đất ngoài sát với bức bình phong là Vườn hoa, cây cảnh và một số cây lưu niên khác. Tiếp giáp với khoảng đất trước là sân có diện tích là 73,8m2 được lát gạch bát sạch sẽ, có tường rào thấp bao bọc. Tất cả được tạo nên một khung cảnh hài hoà trước cửa nhà thờ với một bố cục Cổng - Sân - Nhà thờ.
Kiến trúc nhà thờ: Nhà thờ gồm 5 gian, 4 vì kèo được cấu trúc theo kiểu “vì kèo trụ trốn”. Kích thước: chiều dài 14,2m, chiều rộng trong lòng nhà 7,4m, rộng hiên là 1m. Gồm 2 mái, mặt trước có mái hiên thông suốt 3 gian ngoài, còn hai gian chái được xây tường đốc ra sát mái hiên đỡ tàu mái. Vật liệu xây dựng bao gồm gỗ, luồng, vôi vữa,...nền được lát gạch chỉ màu đỏ, đốc tường xây bằng gạch, mái lợp ngói mũi. Tổng quát nhà thờ bao gồm: 6 cột cái, 16 cột quân và hệ thống các xà dọc nối các vì kèo. Tất cả các xà này cùng với hoành mái làm nhiệm vụ nối các vì kèo của nhà thờ tạo nên khung liên kết vững chắc.
Về hai vì kèo giữa (vì 3 và vì 4). Kết cấu theo kiểu “vì kèo trụ trốn - kẻ chuyền”. Quan sát trên vì kèo: trên đỉnh vì là một xà nóc (còn gọi là thượng lương) được tì lực trên một đấu hình thuyền nằm dọc đỡ chỗ giáp nối của hai đầu thượng lương ở gian giữa và đầu cột ở tường vỉ. Đấu hình thuyền này lại tì lực lên một đấu vuông. Đấu hình vuông này lại được nằm trên một con rường bụng lợn chạy qua hiên mái và trên đầu của hai con rường này là nơi tì lực đỡ hai hoành tải của mái trước và mái sau. ở phía dưới của con rường này được gối lên hai cột trốn qua hai đấu vuông thót đáy. Hai cột trốn hình tròn đứng trên đầu cũng qua hai đấu vuông thót đáy. Phía ngoài hai cột là hai kẻ cong lên phía trên được ăn mộng vào thân cột trốn ở ván nong dày có khoét các lỗ hổng để làm chỗ đứng chân cho các hoành mái (đòn tay) và (các vấn nong này trong dân gian còn gọi là lá dong).
Ở bên dưới câu đầu là quá giang. Quá giang này được ăn mộng trên hai đầu cột quân của mái trước và mái sau. Khoảng không gian của câu đầu và quá giang được cấu trúc là một cột cái ở mái sau nhô cao và được bổ mộng để câu đầu ăn mộng vào. Còn ở mái trước lại là một trụ trốn đứng trên quá giang, trên một đấu vuông thót đáy và đầu trụ trốn này được bổ mộng đế đỡ các câu đầu. Phía ngoài trụ trốn và cột cái của vì kèo là hai kẻ chuyền (tính từ câu đầu xuống) ăn mộng én qua đầu cột cái ở mái sau và trụ trốn ở mái trước rồi chạy xuống đầu cột quân. Tiếp theo từ đầu cột quân lại một kẻ nữa nối dài xuống cột hiên mà ta vẫn gọi là kẻ chuyền. Ở trên các kẻ này là những ván nong cũng được khoét lỗ để làm chỗ đứng cho các hoành mái. Các kẻ này cũng được tạc cong lên phía trên để tạo nên sự khoẻ khoắn đỡ toàn bộ mái nhà. Cấu trúc cuối cùng là một bẫy cổ ngỗng ăn mộng từ cột cái của bức tường gỗ xiên hoa (ngăn cách giữa nhà trong và hiên) chạy qua đầu cột quân và vươn dài về phía trước đỡ hoành tải và tàu mái.
Về hai vì kèo bên (vì 2 và 5), nhìn chung cơ bản giống nhau, có kết cấu “Chồng rường, kẻ bẩy”, chỉ có khác vì kèo này do nằm sát gian chái nên không ảnh hưởng đến diện tích sử dụng của nhà thờ, đồng thời cũng để làm tăng thêm sự vững chắc của ngôi nhà nên việc đỡ vì kèo (câu đầu) là hai cột cái vươn thẳng từ câu đầu xuống nền nhà, còn ở vì kèo giữa ở mái thì lại được thay thế bằng một trụ trốn đến trên quá giang. Nhìn chung, hai vì kèo hồi này được lát những bức ván đố lụa từ trên đỉnh mái xuống sát nền nhà đã tạo nên sự khác biệt giữa hai chái và ba gian chính của nhà thờ. Những bức ván này được bố trí trong các ô tô nhỏ khác nhau theo những quy luật đăng đối, tạo nên sự vui mắt của toàn bộ vì kèo. Những ván này còn được người thợ tạo thành những đường gờ soi chỉ ở toàn bộ bề mặt của vì kèo hồi.
Một điểm khác nữa là ở ngoài hiên của vì kèo giữa là các kẻ chuyền thì ở vì kèo hồi kẻ chuyền được thay thế bằng các bức “Cốn”. Các cốn này được ăn mộng vào xà nách và cột quân tạo thành các khung hình hộp từ sát cột hiên cho đến cột quân theo thứ tự từ thấp lên cao, vừa làm nhiệm vụ đỡ các ván nong, vừa là để trang trí những bức chạm khắc trên các ô trống của cốn.
Về hai vì kèo hồi (vì 1 và 6) được cấu trúc đơn giản gồm quá giang, trụ trốn, kèo suốt tạo thành bộ khung đỡ các hoành mái.
Về nghệ thuật trang trí: Nhà thờ đã có lịch sử hơn 200 năm và nó được tu sửa vào thời vua Thành Thái (triều Nguyễn). Đây là một nhà thờ có kiến trúc độc đáo, tuy nhiên phần trang trí trên các bức cốn, ván nong cũng như những khung gỗ được trang trí hình lá cúc cách điệu, hình bát quái, các hình triện cách điệu hình hoa lá,...đã làm nên sự mềm mại uyển chuyển của công trình. Còn trong toàn bộ kiến trúc của ngôi nhà, ở các đầu kẻ bẩy, kẻ chuyền và một vài phiến đoạn khác của bộ khung gỗ cũng được chạm khắc hình hoa lá v.v...
Tóm lại: qua kiến trúc của nhà thờ như đã mô tả ở trên cho thấy nhà thờ Vương Đình Chiểu là một công trình kiến trúc dân gian thời Nguyễn khá tiêu biểu ở đồng bằng sông Mã còn tồn tại đến ngày nay.
Bài trí trong nhà thờ:
Phía trong nhà thờ, ở gian giữa đặt một hương án cổ, trên hướng án đặt 01 ngai thờ và 6 bài vị cổ và một số đồ thờ rất có giá trị.
Ở phía trên được treo một bức đại tự cổ có nội dung:
Аn thuỷ tư nguyên
(Uống nước nhớ nguồn)
Ở hai cột giữa được treo 2 câu đối cổ có nội dung:
Phiên âm:
Quân thân ân nghĩa tồn thiên địa
Tổ khảo tinh thần tại tử tôn.
Dịch nghĩa:
Ân nghĩa quân vương trường tồn cùng trời đất
Tinh tuý của tổ tiên được con cháu giữ gìn.
Ở gian bên Tả và bên Hữu của nhà thờ cũng được đặt hương án và các đồ thờ tự như mâm bồng, bát hương, chân đèn, ống hương v.v...
Hiện vật trong di tích.
Hiện nay, nhà thờ Vương Đình Chiểu còn lưu giữ được nhiều hiện như:
01 long khám cũ
06 bài vị cũ
01 hộp sắc cũ
02 khay mịch cũ
01 tráp gỗ cũ
01 đại tự cũ
02 câu đối cũ
05 đài nước cũ
06 đài nước mới
01 mâm bồng cũ
02 mâm bồng mới
02 chân đèn cũ
04 chân đèn mới
02 ống hương cũ
04 ống hương mới
01 giá đũa cũ
03 chén rượu đồng cũ
01 bát hương sứ cũ
01 bát hương sứ mới
02 bát sứ cũ.