Tên di sản : Nhà thờ Nguyễn Bá Thân
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 264/QĐ-UBND
Giới thiệu
Nhà thờ Nguyễn Bá Thân có kết cấu hình chữ Nhất với kiến trúc 3 gian nhà gỗ, nhỏ nhắn, chắc chắn hòa hợp cùng với thiên nhiên cây cối xung quanh.
Toàn bộ khuôn viên nhà thờ nằm trên thửa đất 253 với diện tích gần 300m2, trong khuôn viên gồm có sân và nhà thờ, xung quanh được xây tường bao lửng để làm ranh giới phân biệt với các hộ dân khác.
Nhà thờ:
Nhà thờ có diện tích 95,5m2 với chiều dài 11,5m, chiều rộng 8,3m, quay hướng Đông gồm 3 gian, 4 vì gỗ. Hệ vì của nhà thờ được kết cấu theo kiểu thượng giá chiêng, hạ kẻ chuyền - bẩy hiên.
Để tạo nên không gian sử dụng, hai vì chính (vì thứ 2 và vì thứ 3) tạo nên gian giữa có kết cấu giống nhau gồm 5 hàng cột, thiết kế theo kiểu trốn hai cột cái tiền. Các hàng chân cột của các vì này gồm: cột hiên cao 2,57m, chu vi 78cm; cột long cốt cao 3,23m, chu vi 83cm; cột cái sau; cột quân tiền cao 3,30m, chu vi 83cm; cột quân hậu cao 2,60m, chu vi 78cm.
Hệ thống cột cái của nhà thờ có chiều cao 4m, chu vi cột 95cm, đứng trên hệ chân tảng 40cm x 40cm, đường kính mặt gương 30cm.
Phía dưới là quá giang, bên trên là câu đầu nối giữa đầu trụ trốn phía trước và đầu cột cái sau, đứng trên câu đầu là hai trụ trốn của giá chiêng, bên trên nữa là rường bụng lợn và thượng lương.
Gian chính giữa được bài trí bức đại tự: “Tích thiện thành đức” (tích điều thiện để nên cái đức) và đôi câu đối niên hiệu Thành Thái năm Mậu Tuất (1898).
Vì thứ 1 và vì thứ 4 có kết cấu 6 hàng chân cột. Gồm có cột hiên, cột long cốt, cột cái tiền, cột cái hậu, cột quân tiền, cột quân hậu.
Kết cấu bộ vì này dưới cùng là xà lòng, bên trên là câu đầu, đứng trên câu đầu là hai trụ trốn của giá chiêng đỡ rướng bụng lợn, trên cùng là Thượng lương.
Hai gian bên bài trí hai bức đại tự:
“Nghĩa liệt lưu phương”, nghĩa là: Gương nghĩa liệt lưu tiếng thơm. Và “công hầu phục thủy” (các bậc công hầu khôi phục lại công lao tổ tiên)
Trên các bộ vì hầu hết không được chạm trổ hoa văn cầu kỳ. Chỉ có ở đầu các cấu kiện như quá giang, câu đầu và các con rường được điểm xuyết một vài hoa văn hình hoa lá cách điệu.
Kết cấu dọc của nhà thờ là các xà dọc để liên kết các bộ vì với nhau. Gian hồi phía nam rộng 2,70m, gian giữa rộng 2,93m, gian hồi phía bắc rộng 2,8m. Khoảng cách từ vì thứ 1 và vì thứ 4 đến hai bên tường hồi là 1m. Hiên nhà thờ có chiều rộng 1,54m. Trên các bẩy hiện được chạm trổ hoa văn hình hoa lá uốn lượn theo hình dấu hỏi.
Phần mái của nhà thờ: hệ thống hoành, rui, mè đều được làm bằng gỗ. Bên trên lợp ngói mũi hài hoa cúc. Bờ nóc đắp kìm nóc, chính giữa đắp mặt hổ phù, bờ giải đắp vuông kết hợp trụ biểu theo kiểu truyền thống.
Nhà thờ có ba cửa đi chính theo kiểu bức bàn. Mỗi cửa gồm 4 cánh, cao 1,89m. Cánh cửa chính rộng 56cm, các cánh cửa bên rộng 52cm. Trên các cánh cửa không được chạm trổ hoa lá cầu kỳ
Sân và khuôn viên của nhà thờ:
Phía trước nhà thờ là sân có diện tích khoảng 50m2, nền sân được lát gạch truyền thống màu đỏ.
Cổng nhà thờ được xây khá nhỏ và đơn giản theo kiểu cuốn vòm, bên trên làm mái có trang trí hoa văn chữ Thọ. Diện tích còn lại trong khuôn viên của nhà thờ được trồng các loại cây như cây cau, cây ăn quả. Nhà vệ sinh được bố trí kín đáo, hợp lý ở vị trí trong cùng, phía sau nhà thờ.
Hệ thống thờ tự:
Với chức năng và nét riêng có của mình, nhà thờ Nguyễn Bá Thân được bài trí thờ tự như sau:
Gian giữa là ban thờ Án sát Nguyễn Bá Thân và phu nhân - chính thất họ Đỗ, tên hiệu là Từ Hòa.
Ban thờ gian bên Hữu thờ người con thứ tư của cụ Thân là cụ Nguyễn Tu, ông thi đỗ khoa thi năm Ất Mão, niên hiệu Tự Đức năm thứ 8 (1855).
Ban thờ gian bên Tả thờ cháu nội của cụ Nguyễn Bá Thân, tên là Nguyễn Sự Chí, con trai của Nguyễn Lữ, cháu nội Nguyễn Bá Thân đỗ khoa thi năm Quý Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 26 (1873).
Hai bên gian hồi là ban thờ những vong hồn cháu con trong dòng họ không có nơi hương khói thờ tự.