Tên di sản : Nhà cổ của ông Lê Văn Ngạn
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 318/QĐ – UBND
Giới thiệu
Không gian kiến trúc:
Ngôi nhà nằm trên khuôn viên rộng rãi, thoáng mát, trong đó ngoài ngôi nhà cổ còn có một ngôi nhà ở được xây dựng sau này và sân, vườn, ao cá. Đặc điểm của không gian kiến trúc này là khu vườn rất rộng được chủ nhà trông rất nhiều cây ăn quả, khu vườn này bao bọc xung quanh sân và ngôi nhà. Ngôi nhà được xây dựng trong khoảng giữa của khu đất, xung quanh được xây tường rào ngăn cách với các gia đình khác.
Cổng:
Cổng ngôi nhà được xây dựng mới bằng gạch, xi măng rộng 3,2m, cao 2,5m. Phía trên được làm 4 mái đổ bê tông đắp ngói ống bằng hồ vữa, hai bên cột khắc câu đối chữ Hán:
Nhân sinh do tổ,
Mộc bản thủy nguyên.
Cửa cổng gồm hai cánh bằng sắt, trang trí hoa văn cách điệu, tiếp giáp cổng là tường bao quanh khuôn viên khu nhà. Từ cổng vào trong là một lối đi thẳng lát gạch bát rộng 3,5m, dài 14,2m.
Sân: Liền kề lối đi từ ngoài vào là sân năm trước ngôi nhà, sân hình chữ nhật có diện tích 66m2 lát bằng gạch bát.
Nhà cổ: Nhà cổ được xây dựng quay hướng đông, gồm 5 gian, hai chái, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói vẩy, bờ giải đắp hồ vữa đơn giản, cách đây mấy năm khi đảo ngói gia đình đã thay bờ nóc đắp hồ vữa bằng ngói bò. Nối liền giữa sân và nhà là hàng đá lan giai gồm 11 tảng, kích thước các tảng đá không bằng nhau. Tảng lớn nhất dài 1,2m, rộng 60cm; tảng nhỏ nhất dài 72cm, rộng 60cm
Cấu trúc ngôi nhà: Ngôi nhà gồm 5 gian nằm trên một khuôn viên đất bằng phẳng, không gian rộng, thoáng đãng với tổng diện tích 1920m2
Phía Bắc giáp đường làng và thửa 1457T/518
Phía Nam giáp thửa 1462T/754; 1459T/126 và một phần thửa 1454T/928
Phía Đông giáp đường liên xã
Phía Tây giáp thửa 1456T/650; 1455T/858.
(Theo bản đồ Địa chính tỉ lệ 1/2000 đo vẽ năm 1994, duyệt ngày 17/7/1994 sở Địa Chính tỉnh Thanh Hoá)
Các gian nhà được giới hạn bởi phần mái, hai mặt trước và sau nhà, hai vì kèo hai bên. Diện tích nên giới hạn bởi các hàng cột hai vì kèo, xà chắn trước và sau.
Nhìn chung các ngôi nhà dân gian truyền thống thường có chung một kiểu kiến trúc. Ở đây ngôi nhà của ông Lê Văn Ngạn gồm 5 gian: Ba gian giữa là nơi đặt bàn thờ tổ tiên và tiếp khách. Còn lại 2 gian buồng: gian phía nam là nơi giành riêng cho phụ nữ, sinh hoạt trong nhà, gian phía bắc xưa kia là nơi dạy học (bây giờ là nơi tiếp khách của gia đình), khác với những ngôi nhà của các gia đình khác nơi này chỉ dùng cho phụ nữ sinh hoạt hoặc dùng làm kho cất giữ lương thực.
Nền nhà có chiều dài 10m, chiều rộng 5m với tổng diện tích 50m2. Cấu trúc ngang thân nhà có kích thước khác nhau: như từ giọt nước mái ngói trước đến cột hiên trước là 0,58m.
Từ cột hiên đến cột quân: 1,25m
Từ cột quân trước đến cột cái 1,3m.
Từ cột cái đến cột cái 1,35m
Từ cột cái đến cột quân sau 0,90m
Từ cột quân đến cột hiên sau: 0,85m
Cột cái gồm 6 cột: Chiều cao 3,4m; Đường kính 22cm
Cột quân 12 cột: Chiều cao 2,6m; Đường kính 20cm
Cột hiện 2 cột (cột gạch): chiều cao 2m; Đường kính 18cm. Kích thước chân tảng cột cái, cột quân, cột hiên bằng nhau 0,36m x 0,36m.
Các cột trong ngôi nhà cổ dân gian truyền thống đường kính và hình dáng có tỉ lệ tương ứng. Đa số các cột thót về phần đầu và phần cuối, thân cột phình to ra, các xà và câu đầu, xà với cột, câu đầu với cột cũng có sự tương ứng với nhau.
Kết cấu vì kèo:
Cấu trúc mặt bằng theo chiều dọc từ Nam sang Bắc và ngược lại từ Bắc sang Nam.
Theo khảo sát thực tế ngôi nhà 5 gian này có kết cấu kiến trúc khá cân đối.
Ngôi nhà được kết cấu 5 gian 6 vì, đối xứng với nhau qua gian giữa, các cặp vì kèo đối xứng với nhau về kết cấu dọc của ngôi nhà.
Nhìn từ chính diện một vì kèo ta thấy từ cột hiên trước đến cột quân thực chất là một liên kết với các con rường nên mang hình thức kẻ hiên, kẻ hiên trực tiếp mang làm nhiệm vụ đỡ tàu của kết cấu mái chạy suốt chiều dài giọt tranh.
Phần nối giữa cột quân với cột hiên ở phía trong hiện là hệ thống chồng Tường con so, liên tiếp là các con rường chồng lên nhau. Con rường thứ nhất năm trên xà ngang ăn mộng vào đầu trục đứng hình búp sen, liên tiếp là con rường thứ hai nằm trên đấu trụ, tiếp nữa là con rường thứ ba. Tất cả mái hiên này có 9 con rường được kết cấu bởi các xã lòng đỡ các con ngang và toàn bộ hệ thống hoành tải, rui, mè, mái ngói hiên trước.
Ở vì hiện trước được kết cấu kiểu chồng rường. Hoành hiện đều làm bằng gỗ hình vuông bào soi ba mặt, riêng và có hiện được soi cầu kì, kẻ bẩy hiện được trang trí hình hoa cúc cách điệu đặt ở nơi thoáng mát.
Hệ thống xà dọc hiện được soi cầu kì ở hai vì hồi hiên từ cột cái đến cột cái nóc được kết cấu kiểu con so chồng rường giá chiêng.
Từ câu đầu xuống đến xà lòng ở hai vì thuận được dùng ván và trang trí bức xiên hoa, dừng đổ lụa dọc gồm 9 đố dọc soi chạm tinh vi từ xà lòng xuống đến quá giang đóng khung bản lùa ván, soi chỉ. Xà lòng được soi chỉ sống dừa nhất két, từ quá giang xuống đến ngạch xung quanh dựng khung bạo, khung nổ, soi ghép cầu kỳ. Cột cái ở hai vì thuận kết cấu kẻ chuyền giống như cột cái vì 3, 4, 5 theo hệ thống kẻ chuyên giá chiêng.
Khoảng cách cột cái vì 2, 3, 4, 5 đến thượng lương nhà được kết cấu kiểu con so chồng rường giá chiêng. Trên cùng là các con rường chồng lên nhau nhưng tỷ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái.
Đầu con rường thứ nhất trên nóc ăn mộng vào đầu một cái, đầu con rường thứ hai ăn mộng vào đầu trụ đứng. Nối hai trụ đứng này là con rường dài nằm ngang ăn mộng vào đầu trụ đứng đỡ hoành tải của cả mái trước, sau. Trên cùng là bán đấu đỡ thượng lương- điểm cuối cùng của cấu trúc vì kèo. Như vậy các con rường ngoài chức năng đỡ các hoành tải nó còn là yếu tố chính tạo nên hệ thống vì kèo của ngôi nhà.
Hệ thống xà dọc gồm: xà thượng, xà trung và xà hạ (xà thế hoành). Tất cả những xà này được bào trơn, soi gờ chỉ cầu kì.
Hai vì kèo góc: Chức năng của vì kèo này là để đỡ mái của gian hồi và tạo nên tàu mái hồi. Phía dưới là xà góc, trên xà góc là trụ trốn đứng trên đấu bát, đầu trên của cột trốn là kèo góc và kẻ góc, trên kẻ góc được bố trí hệ thống lá dong làm chỗ đứng cho hoành tải. Hai vì kèo này không trang trí hoa văn mà chỉ bào trơn đóng bén.
Phía trước ba gian chính đặt ba bộ cửa bức bàn, mỗi chuông cửa gồm 4 cánh; bậc, ngưỡng cửa làm bằng gỗ nhưng đã được gia đình tháo gỡ thay thế bằng những viên gạch xếp đứng. Chiều cao cửa là 1,71m, cửa được chốt bằng chốt gỗ.
Phía trên hệ thống cửa của ba gian giữa có hệ thống xiên hoa, trên nữa được dùng ván cao 0,50m, phía dưới đặt các con tiện vuông cao 20cm; đố dọc cao 0,70m ; cuối cùng là phần đế diêm xiên hoa cao 0,1m.
Từ xà hạ đến khung bạo của bức bàn là 1,71m; ngưỡng cửa cao 0,4m. Phía dưới cột cái sau cũng được kết cấu hệ thống xà kép (xà thương, xà hạ) được soi chạm và khắc chữ theo kiểu bức xiên hoa. Xà dọc hiện cũng được kết cấu kiểu xà kép (hoành trên, ván giữa, xà hạ) được cấu trúc theo kiểu soi cạnh sống dừa hình bầu dục cắt ngang, các mặt và hai bên được soi chỉ kép song song đối xứng, các xà có tiết diện 0,160 đến 0.165cm. Hệ thống và hạ có tiết diện cao hơn to hơn.
Ngôi nhà này trước kia được lợp mái kè, xung quanh dừng ván, năm 2005 gia đình tu sửa lại xây tường hậu xung quanh, xây cuốn cót hai đầu hồi, đưa cong hai đầu hồi mái trước.
Nghệ thuật trang trí:
Hệ thống vì kèo của ngôi nhà được trang trí không mấy cầu kỳ. Những mảng chạm khắc thể hiện chủ yếu ở hai vì thuận (đặc biệt là vì phía bắc), trên các bức cốn mê, câu đầu, con rường và trên những bức xiên hoa. Hoa văn trang trí những hình hoa lá (hoa cúc, hoa mai) được chạm nổi hay in ve trực tiếp lên những bức xiên hoa.
Trên đây là toàn bộ kết cấu kiến trúc của công trình, ngôi nhà đã đạt tới hình thức thẩm mỹ phù hợp với chức năng sinh hoạt của một gia đình. Đây là những nét đặc trưng của một ngôi nhà mang kiến trúc dân gian truyền thống thời bấy giờ. Những mảng chạm khắc được thể hiện ở bát đấu, trụ, kẻ hiên, hai vì thuận và những hoạ tiết trang trí khác đã làm tăng thêm tính uyển chuyển, mềm mại của ngôi nhà.