Tên di sản : Nghè làng Bùi
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 345/QĐ-UBND
Giới thiệu
Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng thì trước đây nghè gồm cό 5 gian Tiền đường và 2 gian Hậu cung, cổng nghè được xây dựng rất quy mô, trong nghè có bàn thờ, đại tự, câu đối và nhiều đồ thờ quý giá khác.
Trải qua thời gian và nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, nghè cũ đã bị phá hủy, nhưng vị trí cũng như dấu vết kiến trúc của nghè vẫn còn tồn tại đến ngày nay cùng với nhiều hiện vật, di vật liên quan như: sắc phong, thần tích, bát hương, rùa đá, mâm bồng.
Những năm gần đây, thể theo nguyện vọng của nhân dân muốn được trùng tu, tôn tạo lại nghè, nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của nhân dân trong làng cũng như quanh vùng. Năm 2013, nghè làng Bùi đã được trùng tu tôn tạo lại trên nền móng cũ.
Quy mô cấu trúc:
Nghè làng Bùi tọa lạc trên một khu đất rộng, cao ráo và thoáng mát thuộc phía Nam làng Bùi, phía Tây Nam xã Tiến Lộc, có diện tích là 1863m2, thuộc thửa đất số 1017 của bản đồ địa chính xã Tiến Lộc, được đo vẽ năm 2004. Phía Nam (trước mặt nghè) là dòng sông Âu hiền hòa, tạo thành minh đường, về khía cạnh phong thủy đây là kiểu “chi huyền lưu” (tức nhánh sông ngầm chảy); phía Tây xa xa là dãy núi Bần như thế hậu chẩm và xung quanh là xóm làng trù phú của làng Bùi. Với địa hình bằng phẳng, có sông nước, có núi non, cảnh quan thiên nhiên đẹp đã tạo cho nghè có vẻ đẹp tự nhiên, thuần hậu cũng như sự thâm nghiêm, u tịch và linh thiêng. Theo thứ tự từ ngoài vào trong có các công trình như sau:
Cổng: được xây bằng gạch với 2 trụ vuông có chiều cao mỗi bên là 2m, chiều rộng 0,50m x 0,50m, ở ngoài được trát bằng một lớp vôi vữa. Hai trụ cổng được nối với nhau bởi thanh ngang, xây bằng gạch vữa, có chiều cao 0,50m, chiều dài 4m. Cửa cổng được làm bằng sắt với kích thước mỗi cánh: chiều rộng 1m, chiều cao 2m, có then đóng mở.
Sân nghè được chia thành 2 cấp:
Sân dưới: có kích thước: chiều rộng 14,7m, chiều dài 21m, được tráng bằng bê tông. Sân dưới tính từ ngoài vào trong có các công trình sau: Vị trí ngoài cùng có xây một bồn hoa hình thoi, kích thước: chiều rộng 2,38m, chiều dài 4,80m, chiều cao 0,15m, tiếp đến có xây một đế cắm cờ hội, kích thước: 4,80m x 4,80m; đường kính 2,40m, trong cùng là một bể non bộ với chiều dài 2,40m; chiều rộng 2,33m.
Sân trên: cao hơn so với sân dưới 50cm; có kích thước: chiều rộng 6,3m, chiều dài 14,5m, được lát bằng gạch đỏ có kích thước 30cm x 30cm.
Nghè chính được cấu trúc theo hình chữ Đinh (J), gồm có Tiền đường và Hậu cung.
Tiền đường: là ngôi nhà được dựng mới hoàn toàn, cấu trúc gồm 5 gian, 2 dĩ tường hồi bít đốc với chiều dài 14,5m; chiều rộng 7,4m, gồm 6 vì chia gian. Khoảng cách các gian tính theo chiều ngang: 2 gian dĩ đầu hồi làm theo kiểu cuốn cót chiều dài 2,75m, chiều rộng 7,4m; 2 gian bên chiều dài 2,45m, gian giữa chiều dài 3,6m, chiều rộng các gian này là 6m. Sát với sân là 2 cột nanh gắn với 2 đầu hồi. Cột nanh có chiều cao 6,50m, cột được chia làm ba phần: phần đế cột chiều cao 1m, thân cột cao 3m, đỉnh cột chia làm 2 phần: thân chóp chiều cao 1,5m, đỉnh chóp cao 1m. Cột xây vuông kích thước 0,78m x 0,78m, đế cột xây giật cấp, thân cột đắp nổi soi gờ chỉ, lòng thân cột rộng 0,80m, lòng gờ hai bên thân cột rộng 0,1m, đỉnh cột xây gờ giật сắp phình to lớn soi gờ chỉ, được trang trí hình phượng hóa cách điệu. Tất cả đường nét từ chân, thân, đỉnh cột được nghệ nhân trang trí sắc nét tạo đường gờ dứt khoát, thanh thoát, đặc biệt là thân chóp cột xây nhô ra so với thân cột 0,5cm. Từ thân chóp đến đỉnh chóp xây thu vào tạo khoảng thắt đáy đường nét thanh.
Nền nhà Tiền đường cao khoảng 0,4m, bậc tam сấp lên nhà xây bằng xi măng. Nền bậc tam cấp thứ 2 đặt 2 rùa đá (rùa cắm lọng, có lỗ tròn trên lưng) kích thước: chiều cao 20cm, chiều rộng 45cm, chiều dài 50cm. Qua tam cấp là phần hiên với chiều rộng 1,2m, chiều dài 7,2m, được lát bằng gạch đỏ có kích thước 30cmx30cm. Hệ thống cột hiên có 4 cột giả đá vuông, kích thước chiều rộng 0,25m, chiều cao 3m, trên cùng có bát đấu vuông kích thước 30cm x 30cm, dày 25cm làm nhiệm vụ đỡ đầu kẻ bẩy mỗi vì. Thân cột đứng trên chân tảng có kích thước 30cm x 30cm. Qua hiên là 3 cửa trong đó 2 cửa bên có kích thước chiều cao 2,3m, chiều rộng 1,3m, riêng cửa giữa chiều rộng 2,6m, chiều cao 2,3m, kích thước dạ cửa chiều cao 26cm, chiều rộng 20cm. Hiện tại, cửa của nhà Tiền đường chưa có cánh để đóng mở. Phía trên của cửa chính, vị trí xiên hoa là bức đại tự được đắp bằng xi măng, gồm 4 chữ Hán “Thánh Cung Vạn Tuế” sơn màu đỏ, chữ màu vàng, kích thước chiều dài 2m; chiều cao 0,75m, bên tả là bức ảnh vẽ hoa sen, bên hữu là bức ảnh vẽ cây tùng được sơn màu xanh và màu đỏ với kích thước 2 bức bằng nhau (chiều dài 1m, chiều cao 0,75m).
Không gian bên trong Tiền đường có kết cấu bộ khung giằng theo kiểu giá chiêng kẻ chuyền, với chất liệu bê tông sơn giả gỗ, toàn bộ nhà có 6 bộ vì, trong đó 4 bộ vì có kiểu dáng giống nhau mỗi bộ vì có 4 hàng cột trong đó 2 cột cái trước và sau đường kính cột 0,34m, chiều cao 4m, đứng trên mặt chân tảng bê tông, chân tảng xây vuông 0,4m x 0,4m, mặt gương tảng 0,36m, cột long cốt và cột hiên, vị trí cột quân sau là tường hậu; bộ vì thứ 1 và 6 mỗi bộ vì có 3 hàng cột trong đó 2 cột cái trước sau và cột long cốt, vị trí cột quân sau là tường hậu, vị trí cột quân trước là tường cuốn cót. Tổng số có 22 cột (gồm 12 cột cái, 6 cột quân trước, 4 cột hiên), tất cả các cột đều được đứng trên chân tảng bê tông.
Kiểu dáng của các bộ vì đều có cấu tạo theo kiểu giá chiêng kẻ chuyền, trên lưng của kẻ chuyền đều có lá giong bê tông làm nhiệm vụ điều chỉnh độ dốc của mái nhà. Hệ thống rui, mè, hoành tải đều được làm bằng gỗ nhóm 2, liên kết các cột trong bộ vì và đỡ trọng lượng của bộ vì bằng câu đầu và xà ngang. Liên kết các bộ vì với nhau là các xà.
Mái Tiền đường được lợp ngói mũi vẩy lót bằng ngói liệt, bờ nóc trang trí hình rồng chầu mặt nguyệt, kìm nóc đắp hoa văn hình chữ Triện, trụ có kích thước chiều cao 0,50m xây gờ chỉ. 1/3 bờ chảy xây giật 2 cấp: cấp thứ nhất xây trụ trang trí gờ chỉ, còn lại xây giật cấp đến sát cột nanh, bề mặt trang trí hoa lá.
Hậu cung: được thông với nhà Tiền đường bằng 3 của cuốn vòm (kích thước: cửa giữa chiều rộng 2,5m; chiều cao 3m, hai cửa 2 bên có chiều rộng là 1,25m; cao 3m), qua các cửa cuốn có khoảng hè (kích thước của hè Hậu cung: chiều rộng 2m; chiều dài 5,7m). Hậu cung gồm có 3 cửa: cửa giữa chiều cao 2,3m, chiều rộng 1,25m; 2 cửa bên chiều rộng 0,70m, chiều cao 2,3m, cửa giữa có 2 cánh, 2 cửa bên mỗi cửa có 1 cánh dè đóng mở, kích thước của các cánh cửa bằng nhau: chiều rộng 0,65m; chiều cao 2,2m. Hậu cung liên kết với Tiền đường theo hình chữ Đinh (J) kích thước như sau: chiều dài 6,1m, chiều rộng 3,9m, chiều cao 4,75m gồm 2 gian 3 vì. Kiến trúc vì kèo gỗ, chiều cao từ nền nhà đến thượng lương là 4,75m. Hậu cung có 2 cột cái được làm bằng bê tông, chu vi các cột là 0,60m; chiều cao 3,75m, nhà không có cột quân. Các vì kèo đều gác lên tường hậu và tường long cốt. Các vì kèo đều cấu trúc theo vì kèo suốt với hệ thống quá giang, câu đầu, xà dọc tạo nên thế liên kết. Các vì ở đây giống nhau về một kiểu kiến trúc từ mái, hệ thống kèo suốt vừa làm nhiệm vụ đỡ đòn tay, vừa có nhiệm vụ đỡ rui mè của cả 2 mái trước, sau. Nền Hậu cung được lát bằng gạch hoa nâu kích thước 10cm x 10cm.
Nhìn chung, nghè làng Bùi là một công trình kiến trúc gồm có nhà Tiền đường được xây mới, có kiểu dáng, kiến trúc phù hợp, hài hòa với Hậu cung.
Hệ thống thờ tự:
Không gian của Tiền đường không được bố trí đồ thờ cúng mà giành để tổ chức hội họp, tế lễ, bàn những việc quan trọng của làng. Hiện tại hai bên tả và hữu của Tiền đường có xây 2 bệ thờ sơn màu đỏ và vàng (kích thước chiều dài 2m; chiều cao 0,95m) nhưng để trống, chưa có đồ thờ.
Hậu cung được bố trí thờ tự như sau: Nơi cao nhất đặt bức đại tự kích thước chiều cao 0,60m, chiều dài 2,20m nền sơn màu đen, chữ màu vàng ghi 4 chữ Hán “Thánh Cung Vạn Thế”, hai bên treo 2 câu đối bằng chữ Hán có nội dung như sau:
“Miếu vũ anh linh đào hiến quả
Công minh chính trực vị chi thần.”
Ban cao nhất, trang trọng nhất được bố trí thờ Biện Sóc cương trực tôn thần Chu Xương (kích thước của ban thờ: chiều rộng lm; chiều cao 1,80m; chiều dài 2,06m), vị trí chính giữa có đặt một ngai thờ (kích thước chiều cao 1m, chiều rộng 0,50m) và một bài vị bằng gỗ (kích thước chiều cao 80cm, chiều rộng 24cm) được sơn son thếp vàng, trên ngai đặt 2 kiếm sắt có vỏ màu vàng, trang trí hoa văn cách điệu, hai bên đặt hai chân nến đồng, 2 hạc đồng, 2 ống hương bằng gỗ, bên trái có một khay mịch ở trên đặt 1 bảng chúc văn. Theo thứ tự từ trong ra ngoài: ngay chính giữa có đặt một bát hương cũ bằng sứ, 3 đài rượu, 2 đài nước và 2 ống đựng trầm hương.
Ban thứ hai (kích thước chiều rộng 0,56m; chiều dài 1,04m; chiều cao 1,44m) bố trí thờ Bảo nương công chúa - vợ của Chu Xương và Tuyết Nương gắn kết những cung bậc cảm xúc của mỗi người với nhau. Mỗi khi làng diễn ra lễ hội thì ao làng góp phần làm cho lễ hội của làng mang nhiều hình thức đặc sắc.
Ao nghè rất phong phú về các tầng sinh vật sống ở đó; tầng trên là rong rêu, bèo, lục bình, hoa súng.. tầng dưới là môi trường sống của các loài thủy sản nước ngọt như trai, hến, cá rô, cá chuối,...thể hiện đặc điểm tự nhiên của một vùng đất chiêm trũng.
Nhìn chung: Vào thời xưa và hiện nay cũng thế, người Việt quan niệm vũ trụ như gồm nhiều vòng tròn, trong đó, không gian thiêng của làng chính là các công trình tín ngưỡng công cộng. Nghè làng Bùi, bao gồm điểm thờ tự (Nghè) được đặt trước làng (làng xóm phía sau như một hàng rào phòng thủ để chống lại ma quỷ); thế tụ thủy (ao làng), phía trước là đồi núi (núi Bần), theo quan niệm phong thủy, nghè làng Bùi được xây dựng trên một phần đất quý vì tập hợp được các lực của vũ trụ.