Tên di sản : Nghè Thượng

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 3979/QĐ-UBND

Giới thiệu

Nghè Thượng được xây dựng ở vị trí đầu làng Nhân Cao m��t quay về hướng đông nam nhìn ra sông Mã. Di tích nằm sát bờ đê sông Mã cũng là đường liên xã. Với vị trí và địa điểm như vậy, nghè Thượng không những ở vị trí giao thông thuận lợi cả đường bộ, đường thủy mà còn là nơi có cảnh quan thiên nhiên hữu tình.

Theo các cụ cao niên trong làng cho biết, Nghè Thượng trước đây được xây dựng gồm 3 gian chính tẩm, 5 gian tiền tế, có nhà giải vũ, có cổng ra vào được xây dựng quy mô. Ở trong nghè có ban thờ, ngựa, võ sĩ, chuông đồng, đại tự, câu đối, đồ thờ quý giá khác. Đặc biệt trong nghè có bia đá, các đạo sắc phong cho thần ở nghè.

Trong kháng chiến chống Mỹ, nghè bị máy bay của giặc Mỹ ném bom, làm sập đổ, nhiều đồ thờ bị hư hỏng, các đạo sắc phong bị thất lạc không tìm lại được. Tuy vậy, qua thời gian dài, vốn là nơi thờ linh thiêng nên ở khu vực nghè xưa vẫn còn nền móng cùng nhiều hiện vật bằng đá như bát hương, chân tảng, ngựa, tượng võ sĩ, cột,...gạch ngói để rải rác trong và ngoài khu vực nghè.

Hiện tại, không gian nghè được phân bố gồm: cổng, sân, nhà tiền đường, hậu cung trên thửa đất số 96, diện tích 272m2 thuộc tờ bản đồ địa chính số 10 xã Thiệu Quang.

Từ ngoài vào sân gồm những công trình sau:

Cổng nghè: Trước kia cổng nghè được xây dựng tại địa điểm hiện nay. Hiện nay, cổng nghè đã được thay đổi hoàn toàn bằng một cổng mới, có kích thước: rộng 3,3m; trụ cổng: 0,45m x 0,45m; 2 trụ cổng cao 4,1m.

Sân: Sân có chiều dài 13,1m, chiều rộng 8,20m, nền lát gạch bát đỏ kích thước (0,30 x 0,30 m).

Nhà tiền đường: Được dựng theo hướng đông nam, xây trên nền cao hơn mặt sân là 0,50m, xung quanh bó vỉa gạch.

Vào nhà tiền đường qua hệ thống cửa gồm 3 chuông cửa pano có kích thước cao 2,1m, rộng 2,18m, mỗi chuồng có 2 cánh cửa gỗ.

Nhà tiền đường được cấu tạo 3 gian, 4 vì, có chiều dài 10m; chiều rộng 4,3m. Chiều cao từ nền nhà đến dạ quá giang là 4m, nhà không có cột cái, cột quân. Các vì gác lên tường hậu, tường long cốt chỉ có 4 cột hiên. Cột hiên xây bằng gạch trát vữa hồ (cao 1,82m).

Kết cấu vì kèo: Nhà gồm 3 gian 4 vì kèo được cấu trúc theo kiểu vì kèo suốt với hệ thống quá giang, câu đầu, xà dọc kèo tạo nên thế liên kết phỏng theo kiểu kiến trúc cổ truyền thống. Các vì ở đây giống nhau về một kiểu kiến trúc liên kết từ mái hiên kẻ suốt đặt đến tường long cốt chạy từ bức tường long cốt đến thượng lương, hệ thống kèo suốt vừa làm nhiệm vụ đặt hệ thống đèn tay, vừa có nhiệm vụ đỡ hệ thống rui mè của mái trước và sau. Hai trụ đứng đỡ câu đầu và hai hàng kèo gỗ đỡ hệ thống xà (xà thượng, xà hạ, xà thế hoành) tạo thế giằng vững chắc cho khung nhà.

Để mở rộng lòng hiên, người thợ đã nâng mái hiên trước làm 2 cấp từ mái ngói hiên trước đến bức long cốt là một phần ba của mái, từ bức long cốt trở lên đến đỉnh mái là hai phần ba của mái làm cho mái nhà cao hơn. Hệ thống đòn tay, rui, mè bằng luồng, mái lợp ngói mũi, đỉnh nóc nhà đắp rồng chầu mặt nguyệt, bờ dải xây vuông góc với bờ nóc chạy xuống 1/2 mái trước xây giật 2 cấp, đầu nóc xây hai trụ vuông giật cấp, phía trên đặt 2 con kìm ở phần nối giữa 1/2 mái ngói phía trước. Phần nối giữa mái trên và mái dưới được chia thành 3 ô được trang trí hình chim phượng cách điệu.

Hệ thống đòn tay, rui, mè bằng luồng, mái lợp ngói máy, bờ giải, xây vuông góc với bờ nóc chạy xuống phía trước, trát vữa hồ tạo thành bờ guột đến mái hiên.

Hậu cung: Liền kề nhà tiền đường là nhà hậu cung. Nhà hậu cung gồm 3 gian cấu trúc theo chiều dọc, có chiều dài 7,7m, chiều rộng 4,4m. 3 gian 4 vì gỗ được bào trơn đóng bén. Kiến trúc vì kèo gồm hệ thống vì kèo suốt đỡ mái hai đầu gác lên hai tường hồi, rui, mè, đòn tay bằng luồng, mái lợp ngói máy, nền lát gạch đỏ, kích thước 0,30m x 0,30m.

Bài trí đồ thờ trong di tích: Tại gian giữa nhà tiền đường đặt một hương án (sắp hội đồng) bằng gỗ. Hương án có chiều dài 1,9m, rộng 0,98m, cao 1,3m, trên hương án đặt bát hương, đài rượu, đài nước, hạc gỗ.

Bệ thứ hai (phía trong) ban thờ Mẫu đặt 3 pho tượng: Đệ nhất, đệ nhị, đệ tam.

Hai gian bên: Gian đầu đốc phía tây xây bệ thờ xi măng, bệ dài 1,28m, rộng 0,70m, cao 1,1m đặt tượng Đức Ông bằng gỗ, tượng cao 1,1m, dày 0,43m, rộng 0,52m.

Gian đầu hồi phía đông đặt tượng Quan Thái Giám, trên bệ thờ bằng xi măng, dài 1,28m, rộng 0,70m, cao 1,1m, tượng cao 1,07m; rộng 0,54m, dày 0,50m.

Nhà hậu cung các bàn thờ được bố trí như sau:

Ban thờ được xây 3 cấp.

Cấp thứ nhất: Bệ có chiều dài 2,18m, rộng 1,05m, cao 0,39m, đặt 2 long ngai bằng gỗ ở hai bên và một bài vị đứng độc lập bằng đất nung, bát hương, đài nước, đài rượu.

Cấp thứ hai: Bệ có chiều dài 2,18m, rộng 0,88m, cao 0,23m, đặt tượng thần Độc Cước bán thân với chất liệu bằng đất nung, bát hương đài rượu, đài nước,...

Cấp thứ ba: Bệ có chiều dài 2,18m, chiều rộng 0,57m, cao 1,24m, đặt 2 mâm bồng bằng gỗ, đài nước, đài rượu,...

Hiện nay, trên khu vực nghè còn lưu giữ được một số di vật cổ. Những di vật này có giá trị trong việc tìm hiểu quy mô, cấu trúc của nghề xưa cũng như tìm hiểu những vết tích của nền mỹ thuật làng xã đương thời như:

Hiện vật đá:

Hai ngựa đá: Ngay trước cổng nghè đặt hai ngựa đá trong tư thế đứng chầu, chiều cao 1,10m, dài 1,30m, dày 0,60m, đuôi dài 0,74m đứng ngay ngắn trên bệ có kích thước bằng thân ngựa, cổ đeo chuỗi lục lạc gồm 4 quả, yên, cương, được trang trí bởi nghệ thuật chạm tinh tế, hoa văn nổi rõ như tranh vẽ trên yên ngựa hình giống lá đề, có đường viền rộng bản bao quanh, trang trí 5 bông hoa cách điệu, bàn đạp buông thẳng giữa phần bụng, hình độc long uốn khúc như ôm lấy bàn đạp trong không gian như đám mây cuộn tròn và mây hình đao lửa. Liền kề yên ngựa có mảng trang trí trên tấm che phủ mông ngựa vắt qua lưng bởi hai sợi dây kéo dài tới tận khuỷu, yên ngựa uốn cong ôm sát lấy lưng và bụng, có 7 chấm tròn, bố cục chiều dài yên ngựa tạo dáng chắc khỏe. Hai ngựa có kích thước tương tự và được tạo tác giống nhau.

Chó đá: tại góc sân nhà tiền đường đặt 01 con chó đá, cao 0,33m, rộng 0,10m, dày 0,15m. Chó đá trong tư thế ngồi chầu, hai chân sau thu về phía bụng, hai chân trước chống thẳng, ngồi trên bệ đá liền khối, toàn thân con vật được tạo bằng khối đá tròn nhẵn, đóng kín, cấu trúc vững chãi, bố cục chặt chẽ.

Tượng võ sĩ đá: ngay tại cổng nghè đặt 02 tượng võ sĩ, tượng cao 1,38m, rộng 0,50m, dày 0,27m. Tượng đứng ngay ngắn trên bệ, bệ có kích thước dài 0,50m, rộng 0,27m, cao 0,15m. Tượng trong nghi thức đứng chầu gần như bất động, mũ, áo chỉnh tề, chân đi hia, đầu đội mũ khăn vải trùm gáy, mắt nhìn xuống, miệng khép hờ, chòm râu tỉa tót nhưng rũ im lặng, một tay để trước ngực, một tay cầm chùy dựng đứng. Thân hình thẳng đứng, áo tượng hơi dài gần như che kín chân, chỉ hở mũi hia. Từ quần áo, mũ, kiếm, hia làm cho hình khối vụn ra thô cứng không có tính chân dung cá thể. Những cặp võ sĩ như vậy làm cho không khí nơi thờ trở nên trầm lắng, uy nghiêm cả đến những nếp áo cũng rũ thẳng mà không hề có nếp nhăn, không chi tiết nào được lật bay trước gió, các đường viền rõ ràng, các mảng chạm đường ngang và ít đường cong uốn lượn làm cho sự chắc khỏe và có sự uyển chuyển dịu dàng.

Cột đá: ngay sát bờ sân nhà tiền đường đặt 02 cột đá, cột đá có kích thước cao 1,60m, được tạo tác vuông 4 mặt, soi đường gờ chỉ ở 4 mặt (có kích thước 0,15m x 0,17m).

Chân tảng: 02 cái, có kích thước (0,40m x 0,45m x 0,35m) + Chân tảng đá, có kích thước (0,35m x 0,35m x 0,28m)

Bát hương đá: ngay sát bờ sân nhà tiền đường đặt 01 bát hương đá, có kích thước cao 0,25m, đường kính 0,29m, thân trụ tròn một bên hông đắp con nghê đang đeo bám thân hình bát hương, thân có trang trí hoa văn hình học.

Bát hương đá đặt ngay ở cổng, bát hương hình trụ tròn, ở giữa phình to, đáy thắt, miệng thu, lòng bát hương rỗng, thân không trang trí hoa văn gì, cao 0,23m, đường kính 0,30m.

Đôn đá: Hiện tại ở cổng nghè đặt 1 đôn đá là một khối đá liền, có chiều cao 0,43m, rộng 0,28m x 0,28m. Ở 4 mặt của đôn được chạm khắc hình hoa lá cúc cách điệu. Thân đôn phình ra, thế đôn đúng kiểu chân quỳ.

Tam sơn đá: là một khối đá liền, đặt ở góc sân nhà tiền đường, chiều cao 0,78m, dài 1,3m, dày 0,15m. Trên thân tam sơn được chạm hoa lá cách điệu, lưỡng long chầu nguyệt.

Bia đá: 2 cái.

Bia số một, được làm bằng đá nguyên khối, trán bia trang trí rồng ẩn vân mây, hoa cúc dây leo. Diềm bia không trang trí hoa văn, lòng bia khắc chữ Hán nhưng đã mờ hết chữ, đứng độc lập ở góc sân nhà tiền đường, cao 0,78m; rộng 0,47m dày 0,10m; đế cao 0,20m; rộng đến 0,70m, dày 0,30m.

Bia số hai: Làm bằng một tấm đá nguyên khối, đứng độc lập ở góc sân nghè Thượng, trán bia lượn hình vòng cung lưỡng long chầu nguyệt, miệng ngậm chữ thọ, toàn văn chữ Hán khắc chữ chân. Bia cao 1,25m, rộng 0,57m dày 0,10m; trán cao 0,43m; dày 0,17m.

Hiện vật gỗ:

Mâm bồng: Thân hình trụ tròn, miệng loe, sơn màu nâu đỏ, trang trí hoa văn ẩn. Cao 0,25m, đường kính 0,36m.

Khay mịch: Hình chữ nhật, sơn màu nâu cánh gián, mặt trên được trang trí hình triện, thắt giữa, có đường viền và đế được trang trí hình hoa cúc leo cách điệu. Dài 0,49m; rộng 0,27m; cao 0,23m.

Khám thờ: Hình chữ nhật, sơn màu nâu cánh gián, được chia thành 5 ô, trên dưới đối xứng nhau qua một trục ở giữa, gồm hai cánh trang trí hoa cúc leo ở các gờ chỉ, thân cánh cửa phía trên chạm thủng hình Long, Ly, Quy, Phượng, 3 mặt không trang trí hoa văn gì. Khám thờ có chiều cao 1,1m; rộng 0,55m; dày 0,38m.

Mâm bồng, khay mịch, khám thờ đều đặt ở nhà hậu cung.

Hình ảnh Nghè Thượng

Nghè Thượng

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật