Tên di sản : Nghè Tây
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 4087/QĐ-UBND
Giới thiệu
Nghè Tây toạ lạc trên mảnh đất bằng phẳng bên bờ bắc sông Trà lưng tựa vào núi Phường như sự điểm tô cho khung cảnh sông nước, làng mạc để hoàn thiện một bức tranh thuỷ mạc. Trước đây, triều đại phong kiến nhà Lê hàng năm đều cấp tiền cho việc tu sửa và tế lễ tại Nghè.
Nghè Tây có quy mô cấu trúc gồm cổng nghè, sân, 5 gian bái đường và các gian hậu cung thờ Thần Hoàng được kết cấu theo kiểu chuôi vồ, nghè quay hướng Đông Nam.
Cổng nghè được xây theo lối nghinh môn, có lợp mái che uốn đầu đao ở đầu góc, hai hồi đắp nổi 2 vị hộ pháp cầm binh khí canh giữ, phía trên là bức đại tự nổi 4 chữ: “Vạn cổ anh linh”. Hai cột nanh cũng đắp đôi câu đối cổ, thông tin cho ta biết rỗ công tích của vị thần thờ tại nghè
Sân: là sân rộng diện tích 11m x 15,5m, được lát gạch đỏ, đủ tạo ra một không gian rộng để dân làng tổ chức lễ hội, tế lễ, hội họp đông người. Toạ lạc ở vị trí có địa thế cảnh quan đẹp, kiến trúc khá cổ, kết cấu độc đáo, là nơi thờ Thành Hoàng. Đây là một ngôi nhà gỗ với một không gian mở gắn với thiên nhiên, gần với đời, đồng thời sự phân bố không gian trong nghè cũng là biểu hiện chức năng vừa mang tính tôn giáo, vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt cộng đồng.
Là toà nhà khối hình chữ nhật, có 2 mái trước và sau, đầu hồi bít đốc, dựng trên nền cao khoảng 1m, có bậc tam cấp đi vào nghè như nâng toàn bộ khối kiến trúc nổi trội lên. Phần chính của các gian gắn kết với nhau bằng hệ thống xà, cột, đồng thời cũng dồn toàn bộ trọng lực qua các cột chuyển xuống nền nhà. Lối cấu trúc hộ khung gỗ này rất quen thuộc, trở thành "thức" kiến trúc cổ Việt Nam.
Các cấu trúc gỗ quan trọng đều đủ các thành phần: Các vì chia gian được gọi đầy đủ là vì kèo, mà phần quan trọng ở trên 2 câu đầu nối đỉnh 2 cột cái gọi là vì nóc. Hai cột cái dựng cách nhau gần 3m, phía trên có 2 câu đầu lực lưỡng thông qua 1 câu đầu vuông thót đáy để nối 2 đầu cột cái lại. Từ cột cái nối với đầu cột quân có xà nách nằm ngang, phía trên xà nách có các con giường chồng lên nhau qua các đấu kê, các con rường càng lên cao càng ngắn lại để tạo thành tam giác vuông theo độ dốc của mái. Phần đầu trong của giường có thể cắt bỏ để có khoảng trống lắp cốn. Từ cột quân nhô ra phía ngoài có đầu "bẩy” chúc xuống theo độ dốc của mái, đuôi "bẩy" được gọi là nghé ở phía trong của cột quân và áp sát bụng xà nách, có xu hướng để hất xà nách lên, nhưng thực chất là được xà nách khoá ghìm lại. Phần quan trọng của vì kèo là phần vì nóc làm theo kiểu giá chiêng chồng rường, phía trên câu đầu là một con giường kê trên hai đấu vuông, giữa con giường được cắt vát theo hình chữ V mở rộng, phân nó thành 2 đoạn, trên lưng mỗi đoạn được dựng 2 trụ chống, 2 trụ này lại đội một con giường ngắn gọi là con cung hay bụng lợn với 2 đầu thu múp lại. Hai trụ chống được chạm hình bông cúc mãn khai, còn lòng giá chiêng được lắp ván tạo thành một bức cốn được chạm đôi phượng ngậm hoa.
Toà Bái đường dài 15,3m, rộng 8m gồm 6 vì kèo bằng gỗ lim, mỗi vì cách nhau 2,7m, tường bít đốc đầu hồi cách mép kèo khoảng 1,5m để tránh bị thấm tường làm hỏng. Mỗi vì đều kết cấu 4 cột tạo được không gian rộng đều trong Nghè. Vì kèo được làm bằng gỗ lim, theo lối giá chiêng con so trồng rường, thượng lương được đỡ bằng đấu bát tỳ lên đỉnh kèo, thông qua hai trụ giá chiêng kết hợp với xà thượng, xà hạ, xà nách, câu đầu để chống đỡ phần mái đảm bảo một kết cấu vững chắc trước bão, kể cả những cơn lụt lội do nước sông dâng trong mùa lũ. 6 cột hiên của 6 vì kèo được kê trên chân tảng đá hình tròn đường kính 0,33m, cao 0,35m nhằm tránh giọt tranh phả ướt chân cột, phần nào bảo vệ được hàng cột phải tiếp xúc nhiều với mưa nắng, giảm nhẹ hư hỏng. Ngói lợp âm dương trên mái vừa đè xuống sườn nhà vừa kết dính với nhau chặt chẽ cùng với hệ thống bờ bao được đắp trang trí cách điệu gắn kết với 2 trụ biểu vuông tạo thành một khối vững bền. Trụ biểu được xây vuông kẻ chỉ, trên đỉnh trang trí bằng con nghê, trụ được liên kết cùng với tường đốc nối với bát đấu trên đỉnh nóc bằng một hệ thống bờ nóc đắp lưỡng long chầu hoa lửa vững chãi. Hai đốc tường hồi được đắp trang trí mặt hổ phù.
Tiếp theo là Hậu cung có diện tích 3,8m x 5,6m, nơi thờ Thành Hoàng là không gian thiêng. Trong quá khứ hậu cung đã bị huỷ hoại, sau này nhân dân địa phương mới phục dựng lại trên nền cũ gồm 2 vì gỗ, quá giang gác tường. Phần còn lại của hậu cung là bậc thềm có lan can chạm đầu rồng đá và 2 cột đá khắc câu đối.
Trong lịch sử, căn cứ nội dung khắc trên 2 thượng lương còn để lại thì Nghè Tây được tu sửa vào năm 1923 (Khải Định Nhâm Tuất mạnh đông cốc nhật tăng tinh thụ trụ lương ngoã chuyên cát, tạm dịch: được tu tạo mở rộng, đặt thương lương vào ngày tốt tháng 10 niên hiệu Khải Định).
Như vậy, Nghè Tây về cơ bản vẫn giữ nguyên "thức", kiến trúc gỗ Việt Nam có nguồn gốc từ nền kiến trúc dân gian với kết cấu khung gỗ đã quen biết từ lâu đời. Song ở đây, qua việc tu bổ đại đình, kiến trúc truyền thống đã có những thay đổi để phù hợp với đời sống mới đầu thế kỷ XX là đã xuất hiện những vật liệu mới như bức tường xây mặt trước có 3 cửa vuông được ve góc kết cấu dáng bền vững với kỹ thuật lắp dựng chắc chắn và đơn giản.
Nghè Tây có rất nhiều mảng chạm khắc trên các cấu kiện kiến trúc từ định vì đến bức mê, bức cốn hoặc ở kẻ bẩy, được bố trí đều khắp toà Bái đường. Nhìn chung, các mảng chạm đều được thể hiến dưới các hình thức chạm lộng, bong kênh, nổi. Nhiều mảng chạm thể hiện trên cùng một thân gỗ nền có độ kênh tới 0,20m, với nhiều chi tiết được kết hợp giữ bong, kênh, lộng khiến ta có cảm giác đề tài được thể hiện nằm giữa nghệ thuật tạc tượng và chạm khắc phù điêu “kẻ bẩy”, hoặc nhiều mảng chạm khắc tạo tác trên mặt phẳng lại được trổ thủng một cách tinh tế gần như đồ khảm ở cửa võng.
Có thể nói chạm khắc ở Nghè Tây là thể hiện kỹ thuật nghề mộc một cách tinh tế của những nghệ nhân có tay nghề rất cao, không phải là những nông dân làm nghề mộc trong buổi nông nhàn, song vẫn bị lệ thuộc vào kinh tế nông nghiệp, có thể vì thế mà các đề tài chạm khắc ở đây vẫn gắn với tư duy và ước vọng nông nghiệp.
Đề tài về rồng được thể hiện khá dày đặc trên các mảng kiến trúc đặc biệt ở “kẻ bẩy”, đầu dư...có thể thấy những con rồng điển hình được chạm khắc vào nửa cuối thế kỷ XVIII. Với tư duy nông nghiệp các đao mác lớn được bay ra từ mắt, từ 2 cánh mũi và có nhiều con rồng khoan sâu lỗ mũi được thể hiện tại các “kẻ bẩy”.
Bài trí đồ thờ:
Đồ th��� tại nghè đã làm thiêng hoá trong cấu trúc thờ tự là những sản phẩm văn hoá vật thể chứa đựng ước vọng truyền đời của con người, qua nó như qua thần linh để cầu phúc, phản ánh tâm thức của người dân ở đây. Gian chính giữa đại đình, bức đại tự “Thượng đẳng thần” và “Nhật Nguyệt Minh” (mặt trăng, mặt trời toả sáng) với đôi câu đối treo hàng cột.
Thịnh khí thiên thu phù Lý Đế
Anh linh nhất đức trấn Chiêm Thành.
Tạm dịch:
Khí thịnh ngàn năm phò vua Lý
Uy linh một dạ đánh giặc Chiêm.
Nơi thiêng nhất là Hậu cung là nơi thần ngự, là ban thờ, các đồ tế tự và hai cỗ ngai có bài vị ghi dòng chữ về tước vị thần: “Thiên hương phù dung tôn linh công chúa linh vị” và “Uy Minh thượng đẳng thần Đại Vương linh vị”. Trên ban thờ có nhiều vật dụng tế tự như chân nến, hộp quả, lư đồng, khay gỗ, bát hương...
Vào ngày Xuân các làng trong xã Thành Lộc mở hội lớn, song có quy mô lớn nhất là lễ hội Nghè Tây lớn nhất trong vùng. Ngày tổ chức lễ hội là 22, 23, 44 tháng Tư âm lịch. Trong 3 ngày lễ hội, ngày 22 làng rước kiệu và để đến 23 tế yết. Ngày 23 buổi sáng, đại tế ở đình, buổi chiều làng rước kiệu quanh làng về đình làng để tế. Kiệu thần được đặt hàng đầu sau đó là kiệu thần của các làng. Làng tổ chức ăn uống vui chơi, đua thuyền trên sông Mã, đi cà kheo, thi võ vật,...
Thống kê hiện vật:
Hiện vật cũ:
Bản Ngọc phả “Thần tích Nghè Tây” khổ 15cm x 18cm.
14 đạo sắc thời Lê - Nguyễn; 01 ngai thờ thời Lê; 01 mũ thờ đường kính 0,23m; 01 bàn thờ cao 0,80m, dài 0,70m, rộng 0,55m; 01 đôi câu đối gỗ, dài 1,81m, rộng 0,25m.
Hiện vật mới: 01 bát hương sứ cao 0,25 đường kính 0,22m; 03 bàn thờ cao 0,80m, rộng 0,70m; 06 hộp quả gỗ; 02 hạc gỗ cao 0,85m; 02 hạc sứ cao 0,25m; 04 chân nến đ���ng cao 0,35m; 02 khay sứ; 02 lục bình sứ cao 1,2m, đường kính 0,35m; 02 khay gỗ cao 0,20m, dài 0,40m, rộng 0,30m; 01 long ngai đặt bài vị; 02 bức đại tự rộng 0,70m, dài 1,80m; 02 giá chiêng trống đại cao 1,02m; Bộ chấp kích, tán, lộng, cờ phướn, phất trần.