Tên di sản : Nghè Sơn Hà
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3332/QĐ –UBND
Giới thiệu
Nghè được xây dựng trên một khu đất ở trung tâm làng “Nhìn ra phía trước là ngọn núi Na án ngữ, sau được bao bọc bởi dòng sông nhỏ (sông Hoàng). Sông núi hình vòng cung từ tây nam sang đông bắc, cuộn mình lại như một chú rùa vàng. Ở phía tả (Thanh Long) là ngọn núi sừng sững như một vị tướng rất đỗi oai phong, hữu (Bạch hổ) có nguồn nước tuôn trào, Nam (Chu tước) có một gò đất lớn; Bắc (Huyền vũ) nổi lên một chuỗi hạt ngọc châu hình Tam Đài.
Trải qua năm tháng và những cuộc binh lửa, nơi thờ tự chỉ còn lại một gian chính điện lợp ngói và những bức tường ẩm thấp. Vì vậy, nên nhân dân mới xin với những bậc bề trên được dựng lại hai toà Tiền đường, một toà 5 gian và một toà 9 gian, quanh vườn được bao bọc bởi những bệ đá; nội điện lợp ngói, ngoài cửa cây cỏ tốt tươi.
Công trình được khởi công vào tháng Tám năm Đinh Hợi (1767) hoàn thành năm Giáp Ngọ (1774), từ đó trở đi phong cảnh trở nên đổi mới, người và vật trở nên yên bình, khang thái, nho phong phân phát như quay về thời thịnh trị Hán, Đường và tiếp được (đạo học) của thầy Mạnh Tử. Đồng thời việc thờ cúng cũng trở nên linh thiêng.
Năm Kỷ Tỵ xã dân quy định lệ tế, từ đó nơi này trở thành nơi thờ tự rất linh thiêng của trời Nam...”.
Theo sự ghi chép của văn bia nêu trên chúng ta biết ngôi Nghè thờ đã được xây dựng từ trước đó đã lâu và đến tháng Tám năm Đinh Hợi (1767) miếu thờ chỉ còn lại một gian chính điện lợp ngói và những bức tường ẩm thấp, hư hỏng và sau 8 năm trùng tu (năm 1775 dựng bia ghi lại sự việc trùng tu) đến năm 1774 thì hoàn thành, qui mô di tích gồm chính điện, 2 toà tiền đường (1 toà 5 gian và 1 toà 9 gian). Bên ngoài miếu thờ phía trước và phía sau sự bố trí và sắp đặt các hạng mục khác không thấy văn bia ghi lại một cách cụ thể. Nhưng quan sát trên một không gian hiện tại cùng với nền móng và những hiện vật đang còn lưu giữ cho thấy di tích được bố trí thành một chỉnh thể hoàn chỉnh có không gian kiến trúc gồm cổng - sân – tiền đường (2 toà) - chính điện. Phía trước khu di tích còn có ao lớn làm nên thế tụ thuỷ nơi thờ.
Như vậy, diện mạo trên của di tích tồn tại trong một thời gian gồm 2 thế kỷ, và cho đến những năm 60 của thế kỷ XX các công trình chính của cung miếu đã bị phá huỷ hoàn toàn chỉ còn lại nền móng. Tuy nhiên, hiện tại một số hiện vật bằng đá đang còn lưu giữ tại di tích cùng với một số hiện vật bằng gỗ khác đang được bảo quản trong nhà dân là một nhóm hiện vật cực kỳ có giá trị đánh dấu thành quả của nền nghệ thuật điêu khắc dân tộc ở thế kỷ XVIII.
Với cách bố trí những hiện vật này theo thứ tự từ ngoài vào gồm có:
Bia Hạ Mã:
Bia này trước đây được dựng ở phía ngoài khuôn viên của di tích trên đường làng gần vào cổng, nhưng hiện nay đường vào cổng chính đã bị san lấp (không còn đường nữa), bia cũng được di chuyển vào cổng phụ sát hàng rào của khuôn viên di tích hiện tại.
Bia có cấu trúc hình chóp, đế bia dài chôn dưới đất, thân bia cao 1m, vuông 4 mặt (mỗi mặt rộng 0,34m); chóp bia cao 0,32m (tính từ mái chóp), rộng 0,39m. Mái bia khắc chữ Hán phần lớn đã mờ hết chữ, chỉ đọc được hai chữ Hoàng Nguyễn... Dưới chân bia, người dân cũng đặt 2 bát hương (một bằng gốm và một bằng đá).
Nhóm tượng vũ sĩ:
Tượng vũ sĩ bằng đá được bố trí thành 2 dãy trước sân cung miếu còn khá nguyên vẹn; mỗi dãy 2 tượng. Nhóm tượng này được tạo tác trang phục võ quan giáp trụ. Hai pho tượng ở ngoài cùng của 2 dãy, trên thân tượng không thấy ghi dòng chữ Hán nào, hai pho tượng ở phía trong: tượng bên tả ghi “Tả hộ tướng, Giáp Tuất Nguyệt tạo”; tượng bên hữu ghi “Hữu vị tướng, Kỷ Hợi niên tạo”. Theo những ghi chép này thì tượng được tạo dựng vào năm 1779, sau 5 năm khi hoàn thành việc trùng tu cung miếu.
Hai pho tượng ở phía ngoài của hai dãy có chiều cao 1,5m; rộng 0,60m, chu vi thần tượng là 1,45m (không kể đế vuông). Tượng được diễn tả theo tư thế đứng, đầu đội mũ tròn, phân trước mũ và hai bên mang tai có chạm vân mây nổi nhẹ, gần đỉnh mũ được gồ lên, giữa đỉnh có gù cao chóp hình Côn khoảng 5cm. Phía sau mũ có lá chắn rũ xuống. Mặt tượng được chạm nổi khối, mặt, mũi, mồm cân đối, nét mặt trang nghiêm, biểu cảm của một võ quan trẻ. Tay tượng buông xuôi theo tư thế cầm gươm, lưỡi gươm dựng thẳng áp liền thành mũ, tay bên kia co lên để úp lòng bàn tay vào bụng. Áo giáp được diễn tả hai lớp có mép viền lớn, có vẩy. Quần giáp là những mảng rộng khoẻ có lá toạ che phía trước có viền ngoài cách với phía trong là quần triều phục. Sau cùng là giây chiến kiểu bia đứng trên bệ đá vuông (phần hia và khối đá vuông hiện đang chìm dưới đất khoảng 3 – 5cm).
Hai pho tượng: Tả hộ tướng và Hữu vệ tướng có chiều cao 1,8m; rộng 0,73m; chu vi 1,6m. Tượng được diễn tả theo tư thế đứng, đầu đội mũ tròn. Phía trước mũ và hai bên mang tai có chạm vân mây nổi nhẹ, gần đỉnh mũ được gồ lên, giữa đỉnh có gù cao chép hình còn khoảng 5cm. Hai bên vành mũ vòng phía sau có lá chắn che rủ xuống tạo 2 nếp lượn chéo của giáp được diễn tả chồng lên nhau, kéo xuống vai để tạo nên sự đăng đối. Nét mặt tượng được tạo tác có hình khối nổi, nghiêm nghị, trầm tư, với bộ râu dài của một võ quan đứng tuổi. Áo giáp được diễn tả hai lớp có mép viền lớn, ống tay ở vai và phần bụng được chạm nổi vẩy lục lăng, xung quanh có viền. Quần giáp là những mảng rộng, có lá toạ che phía trước. Ở trong lá toạ cũng được chạm nổi vẩy lục lăng. Phía trong là quần triều phục và dưới cùng là giây chiên kiểu hia cao đứng trên bệ đá vuông.
Bốn pho tượng vũ sĩ nêu trên, mỗi pho là một tác phẩm tạo hình hoàn chỉnh, được tạo tác công phu từ những khối đá nguyên khối.
Ngựa đá:
Tượng ngựa đá nguyên khối cao 1,8m; dài 1,6m; rộng 0,45m được tạo tác có dáng ngựa chiến cao lớn, cổ thon, ức nở, bờm ngắn, lưng khoẻ. Phần thân ngựa lót dưới yên là hai thảm trang trí phủ dài lớp ngoài cùng phía trên da, phía trên là yên cương. Yên cương lõm xuống, sau và trước yên có gù, xung quanh yên có đai lớn chạm nổi đanh tròn to khoẻ, phần đai yên cương rộng bản có đanh nổi hình tròn. Từ mõm ngựa chạm một hình dây cương chéo qua cổ đến phần yên cương. Cổ ngựa được chạm quả hình lục lạc tròn. Phần đuôi ngựa chạm thẳng xuống phần bệ tượng, hơi cong ở giữa tạo nên sự mềm mại. Chân ngựa trước và sau được tạo tác nổi tạo thế khoẻ, phần móng được mở ra tạo thế vững chãi và khoẻ mạnh của chiến mã.
Ngựa bên hữu ghi Ất Tỵ niên Lưỡng tộc cung tiến; Ngựa bên tả ghi Quý Thu nguyệt song mã Lê Trần (nghĩa là đôi ngựa được hai họ cũng tiến năm Ất Ty (1785).
Rùa đá và bát hương đá:
Rùa đá được tạo tác hình thân rùa nổi, ở giữa thân rùa khoét rỗng dùng để cắm cờ.
Bát hương đá hiện còn 3 loại: Gồm bát hương đá hình tròn có chân, hình chữ nhật có tai và bát hương hình trụ tròn ống cao được chôn dưới đất. Sự tồn tại của những loại bát hương hiện tại trong khu di tích cho thấy sự phong phú của loại hình di vật điêu khắc đá của di tích.
Bia “Trùng tu cung miếu bi” xã Sơn Hà, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, xứ Thanh Hoa.
Văn bia được khắc vào năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) do tiến sĩ khoa Nhâm Thìn, đệ nhất Hàn lâm Viện thị thự phụng sai xứ Thanh Hoa, tham hình ty, hiến sát sứ Nguyễn Duy phụng Soạn.
Bia cao 1,75m; rộng 1,1m; dày 0,18m. Trán bia mặt phải được chạm hình trăng tròn trong vân mây, mặt trái là hình mặt trăng khuyết trong vận mây. Diềm bia được chạm lá cúc cách điệu. Bốn mặt bia đều khắc chữ Hán. Mặt trái và mặt phải khắc hình chữ Hán nhỏ; 2 mặt bên cạnh bia) chạm khắc chữ Hán lớn.
Nội dung mặt trước bia ghi cảnh trí của vùng đất Sơn Hà xưa; năm khởi công năm hoàn thành việc trùng tu cung miếu. Cuối lời văn là một bài minh ca ngợi cảnh đẹp và ghi nhớ lại lần trùng tu nay. Mặt sau ghi chép danh sách những người hảo tâm công đức đóng góp tiền của để thờ thần và lệ tế hàng năm...
Điêu khắc gỗ:
Hiện nay, ở làng Sơn Hà nhân dân còn lưu giữ được 3 hương án gỗ Vốn là của cung miếu trước đây.
Hương án thứ nhất được lưu giữ tại nhà ông Lê Vĩnh Cứ thôn Sơn Hà Hương án được tạo tác ở thế chân quỳ. Trang trí điêu khắc ở hương án này đặc biệt tinh xảo, trong đó đề tài hình rồng được chạm dày dặc trên bề mặt của hương án. Bốn góc của chân quỳ được chạm nổi hình đầu rồng vươn ra phía ngoài, đuôi và chân rồng được chạm hình hoa lá cách điệu. Phần da cá chạm một hình đầu rồng có đầy đủ bờm, mắt, mũi, miệng trong tư thế vươn ra phía trước. Ở các vách ngăn giữa các bệ, góc là hình các con rồng có tư thế uốn lượn. Ở 4 góc trên mặt hương án là 4 con rồng chầu vào phía trong, đầu ngẩng cao; kỹ thuật chạm 4 con rồng này là chạm bong.
Hương án thứ 2 được lưu giữ ở nhà ông Lê Đình Thành, thôn Sơn Hà.
Dáng của hương án được tạo tác ở thế chân quỳ. Trang trí điêu khắc chủ yếu trên bề mặt của hương án được chạm nổi hình cây cúc, lá cúc và hoa cúc. Ở phần bệ dưới của hương án, điêu khắc được diễn tả theo một bố cục chặt chẽ. Bốn chân quỳ (4 góc) là hình cây cúc với những lá cúc vươn dài ra 4 mặt của hương án: ở hai bên là hình hoa cúc chưa nở hết (nụ cúc); ở phần da cá là lá cúc và hoa cúc đã nở rộng. Các vách ngăn của 3 mặt cũng chạm hình hoa lá, 4 góc được chạm theo lối đường truyện. Xung quanh mặt hương án được chạm hình sóng nước. Có thể thấy ở hương án này điêu khắc mang tính dân gian cao, hầu như hình rồng và các linh vật khác vắng bóng.
Hương án thứ 3 đang được lưu giữ ở nhà ông Lê Quý Hơn. Đây là một hương án nhỏ. Mỹ thuật đơn giản.
Như vậy, có thể thấy Nghề Sơn Hà mặc dù không còn tồn tại, nhưng những hiện vật đá và gỗ như trên còn lưu giữ trong di tích và trong nhân dân là những báu vật do bàn tay tài hoa của nhân dân ta tạo nên cần phải được bảo vệ nghiêm túc hơn nữa. Vì đấy chính là thành quả lao động nghệ thuật của cha ông chúng ta mà những di vật còn lại ở Nghè Sơn Hà góp phần làm phong phú thành tựu nghệ thuật của cha ông ta ở thế kỷ XVIII.
Loại di tích:
Mặc dù, khu di tích của Nghè Sơn Hà đã bị phá huỷ hoàn toàn, nhưng những di vật còn lại đến ngày hôm nay là những tài sản cực kỳ có giá trị. Vì vậy, nhóm nghệ thuật điêu khắc đá, gỗ Nghè Sơn Hà thuộc loại di tích nghệ thuật điêu khắc.
Các hiện vật có trong di tích:
4 tượng vũ sĩ bằng đá (thế kỷ XVIII)
2 tượng ngựa đá (thế kỷ XVIII)
2 bia đá (thế kỷ XVIII)
3 hương án gỗ (thế kỷ XVIII)
7 bát hương đá (thế kỷ XVIII)
2 rùa đá (thế kỷ XVIII)
1 đế cờ (thế kỷ XVIII).
Ngoài ra, di tích còn có những hòn đá tảng, gạch vỡ nằm ở rải rác trong khuôn viên của di tích.