Tên di sản : Nghè Du Vịnh
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 318/QĐ – UBND
Giới thiệu
Nghè có kiến trúc theo kiểu chữ Đinh (J) bao gồm Tiền Tế và Hậu cung. Nhà Tiền Tế 5 gian với 4 vì kèo gỗ được kiến trúc theo kiểu “chồng rường kẻ bẩy” gồm 2 hàng cột cái (12 cột) và hai hàng cột quân (12 cột), xung quanh được thưng ván dổi, mái lợp ngói âm dương, rui mè đều bằng gỗ lim. Trên bộ khung nhà được chạm khắc phong phú các trang trí theo các đề tài tứ linh, tứ quý, mây cụm, vân xoắn hoa lá...truyền thống.
Nối liền với nhà Tiền tế là nhà Hậu cung gồm 3 gian cột lim đứng hai hàng tiếp giáp với nhà Tiền tế. Khoảng cách giữa nhà Tiền tế và nhà Hậu cung là máng nước đá có hai cột đá vuông chống đỡ, xung quanh được bao bằng đá vuông.
Đồ thờ: ở Hậu cung có 3 bàn thờ lớn (còn gọi là hương án hay cố ý) đặt theo thứ tự từ cao xuống thấp. Ngoài nhà Tiền tế có 1 hương án lớn, bộ chấp kích (2 hàng). 1 hòm đựng sắc phong để trong Hậu cung để lưu giữ thần phả, sắc phong, 1 hòm để ngoài nhà Tiền tế lưu giữ các bài văn tế, thơ văn của các nhân sĩ để vị. Đồ tế kí còn có 2 lư hương bằng đồng, 2 đôi hạc lớn đứng trên lưng rùa, hai ngựa đá, 2 ngựa gỗ kích thước 1/1, 2 đôi đèn lồng, ô lộng, quân cờ và hàng chục bát hương gốm, đá có trang trí hoa văn phong phú.
Ở vị trí cột cái ngoài Tiền tế treo 4 đôi câu đối ở gian giữa, ở Hậu cung 2 đôi, ngoài Tiền tế gian giữa trên cao là bức hoành phi “Vạn cổ anh linh”. Sân Nghè lát gạch bát và là nơi để bồn hoa, cây cảnh. Ngăn cách tường sân với vườn là hàng cây lá nhỏ được cắt xén vuông vức.
Năm 1960 do biến động của công cuộc bài phong, Nghè bị tháo dỡ hoàn toàn để lấy vật liệu xây dựng nhà Hợp tác xã mua bán, trạm xá, đóng bàn ghế cho trường học, còn lại 5 gian nhà Tiền tế, Hợp tác xã dùng làm nơi đặt máy tuốt lúa, xay gạo, sân Nghè làm sân phơi thóc cho Hợp tác xã, xây lò thuốc mầm xử lý giống. Đồ tế khí như ngựa gỗ, hạc, rùa, câu đối, hoành phi, lư hương, đế đèn thờ thất lạc hết.
Tháng 4 năm 2006, trên cơ sở sưu tầm những hiện vật cũ của Nghè như: Bia Hậu, đá tảng, đá cắm lọng, cột đá máng nước, đá lăn giai, bát hương đá, Ban quản lý tôn tạo Nghè Du Vịnh đã được chính quyền địa phương cho phép dựng lại Nghè trên nền đất cũ.
Do điều kiện kinh tế của làng còn khó khăn nên việc trùng tu, tôn tạo di tích Nghè cũng chỉ dừng lại xây được khu vực Hậu cung dài 5,1m; rộng 3,4m với diện tích 24m gồm 2 gian xây bằng gạch, phần mái lợp ngói. Trên nóc mái viết chữ Hán nổi màu đen “Nghè Ba Mươi”. Trên đình đắp đôi rồng chầu mặt nhật.
Bài trí trong Nghè thờ: Chỉ đặt một bàn thờ ở gian giữa. Ngai chính giữa thờ vị thần: La Thượng Anh Minh La Luyện Chiểu Chước tôn thần, ngoài ra bàn thờ được bày kiếm thờ, hạc thờ, các đồ tế khí khác như chân đèn, đài nước, mâm bồng, khay mịch, chuông đồng nhỏ,...
Đặc biệt trong Nghè còn lưu giữ được 2 tấm bia đá: 1 tấm bia Hậu ghi việc đóng góp tiền, ruộng xây dựng Nghè và 1 bia Văn chỉ của làng được soạn dưới đời vua Tự Đức thứ 31 (1878).
Về tấm bia Hậu Nghè Ba Mươi (bia mờ dòng lạc khoản): Cao 0,6m; rộng 0,50m, không khắc trán và viền. Bia hiện vỡ làm 4 mảnh, một mảnh đã mất, người dân gắn nhầm mảnh vỡ của bia khác vào. Hơn nữa, hiện nay hầu hết các chữ đã mờ. Từ những chữ còn sót lại cho biết: Đất Phúc đình ở xứ Nường Đông (tức Cồn Nương về phía Đông). Về đất đai thì đất tự điển (đất lộc điên lo việc thờ cúng) tại xứ Hiệu Hậu 1 sào, 100 quan do ông quan triều Lê...Đất tự điên (đất lộc điên lo việc thờ cúng ở xứ Nường Đông 1 sào...36 quan do bản làng...
Phần dưới bia ghi: Bản giáp thư chỉ là ông Nguyễn Văn Thứ, Nguyễn Văn Trần...Cầm Văn Phát, Nguyễn Văn Sâm, Đỗ Hữu Phổ, Nguyễn Văn Phả, Đỗ Hữu Thủ, Trần Công Nam…
Cựu Lý trưởng thứ ba là ông Trần Trọng Đôn cùng trên dưới.
Qua việc tìm hiểu những ghi chép còn đọc được trên bia tuy không đầy đủ nhưng những thông tin ít ỏi này cũng cho chúng ta biết:
Dân làng Du Vịnh rất giàu truyền thống yêu thương nhau, những người dân trong làng cho đến các vị chức sắc đều lấy sự quyên góp tiền tài và ruộng nương giúp cho việc thờ cúng thần thánh ở Nghè, Tập tục thờ cúng người góp công đức có lịch sử lâu đời ở làng Du Vịnh.
Trong quá trình công cư, các dòng họ gắn kết với nhau bằng nhiều mối quan hệ, trong đó quan hệ việc làng là nét nổi trội nhất của cư dân vùng biển. Theo lệ xưa hàng năm làng Du Vịnh tổ chức lễ hội Rằm tháng Giêng, thượng hạ điện, cơm mới, tất niên với hát văn, hát cầu, múa lân để tế vị thần hoàng của làng và tổ chức các trò chơi dân gian...đã nói lên tính cố kết khá bền vững của các dòng họ trong cộng đồng cư dân Du Vịnh xưa. Việc tổ chức lễ hội được tất cả các dòng họ tham gia và có nghĩa vụ đóng góp công, của.
Về tấm bia văn chỉ của làng: Được lưu giữ tại Nghè Ba Mươi. Nội dung của tấm bia này không liên quan gì đến Nghè Ba Mươi nhưng những thông tin ở tấm bia này lại phản ánh được đời sống tín ngưỡng, văn hoá và truyền thống Nho học ở làng Du Vịnh xưa. Bia được soạn vào ngày tốt giữa mùa xuân năm Mậu Dần niên hiệu Tự Đức thứ 31 (1831). (Chúng tôi xin được đưa vào phần phụ lục để tham khảo thêm).
Tóm lại: Nghè Du Vịnh sau mấy trăm năm tồn tại nơi đầu sóng ngọn gió đã bị huỷ hoại và mất mát đi nhiều tài liệu quý. Việc trùng tu tôn tạo lại Nghè xưa tuy không được bề thế khang trang nhưng dù sao thì những gì còn lại đã phản ánh phần nào diện mạo xưa của Nghè đã trở lại. Những chứng tích đó đã làm sống lại một đời sống tinh thần của văn hoá làng xưa trong đó tục thờ thần hoàng là nét nổi trội nhất.
Loại di tích:
Nghè Du Vịnh (tức Nghè Ba Mươi) thuộc loại di tích lịch sử.
Các hiện vật trong di tích:
Nghè Du Vịnh hiện có những hiện vật sau:
Ngai thờ và bài vị: 1 cỗ (loại mới)
Khay mịch: 1 cái (loại cổ)
Mâm bồng: 1 cái (loại cổ)
Đài nước: 9 cái (loại mới)
Chân đèn: 6 cái (loại mới)
Ống hương: 6 cái (loại mới)
Hạc gỗ: 4 con (loại mới)
Bát hương sử: 2 cái (loại mới)
Chuông đồng nhỏ: 1 cái (loại mới)
Bia Hậu Nghè Ba Mươi rộng 0,45m; cao 0,75m; dày 0,07m.
Bia Văn chỉ rộng 0,48m; cao 0,80m; dày 0,9m.
Chân tảng đá: 7 cái
Đế bia: 1 cái
Máng đá: 1 cái
Chân lông đá: 3 cái
Ngoài ra, còn một số đá lan giai của Nghè xưa.