Tên di sản : Nghè Đại Bái
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : 345/QĐ-UBND
Giới thiệu
Nghè Đại Bái nằm ở thôn Đại Bái, xã Thiệu Giao, huyện Thiệu Hóa tọa lạc trên khu đất rộng cao ráo và thoáng mát, mặt quay ra hướng nam, xung quanh là làng mạc, ruộng đồng trù phú bao bọc.
Về quy mô cấu trúc:
Không gian mặt bằng của nghè hiện tại được bố cục theo kiểu chữ nhất gồm một nhà tiền đường. Phía ngoài cổng có bức bình phong, nghinh môn. Đất đai đã bị thu hẹp lại. Thời gian gần đây, bằng nguồn vốn công đức của nhân dân, chính quyền địa phương cho phép Ban quản lý nghè tu sửa nhà tiền đường, phục dựng lại nghinh môn, bức bình phong.
Thứ tự từ ngoài vào có các công trình sau:
Cổng: Cổng rộng 2,4m, cao 3,2m, có hai trụ cổng hai bên, thân trụ rộng 0,40m x 0,40. Lòng cổng rộng 2,4m, có 2 cánh cửa sắt mở ra vào, mỗi cánh rộng 1,2m.
Bình phong: Tại địa điểm hiện nay bức bình phong trước kia được dựng chất liệu bằng gạch đỏ phía ngoài trát vôi, cát, cấu trúc và cách trang trí như bình phong bây giờ. Năm 2013, địa phương phục dựng bức bình phong mới bằng đá xanh.
Trước nghinh môn là bức bình phong đặt ở giữa đối diện với nghinh môn, được làm bằng đá xanh nguyên khối tách rời giữa hai cột và thân, có chiều dài 2,1m, cao 1,78m, dày 0,20m; cấu trúc và trang trí kiểu cuốn thư. Một bên thanh kiếm, một bên bút nghiên, ở giữa trang trí hình long cuốn thủy, hai bên khắc 1/2 chữ thọ, bệ kiểu chân quỳ, ở giữa khắc hình hổ phù, thân thanh gươm, bút trang trí sen hoa, bên cạnh thanh gươm trang trí vân mây, thân cột trang trí các hóa, đế cột hình chân quỳ, hai đỉnh cột khắc hình búp sen.
Nghinh môn: Nghinh môn được xây cách bức cuốn thư 3,5m, chiều dài 6,1m, hai bên xây 2 cột nanh cao 4,0m; đắp gờ chỉ, cột nanh chia làm 3 phần: đế, thân, chóp cột. Đế cột cao 0,80m, rộng 0,60m, thân cột rộng 0,38m x 0,38m, cao 0,50m, phía trên đỉnh cột gắn con nghê. Từ cột nanh đến cổng phụ được chia làm 2 mảng tường khoảng cách hai mảng tường xây trụ cao hơn mặt tường 0,50m đỉnh cột trụ đặt búp sen, đỉnh nóc tường trang trí 3 ô hình chữ thọ.
Cửa phụ cao 3,3m, rộng 0,90m, đỉnh mái che đặt hồ lô, 4 đầu đao đặt long hóa. Từ cửa phụ đến cửa chính là 0,96m. Cửa chính cao 4,50m, chiều cao từ mặt đất đến vòm cửa 2,6m, chiều rộng lòng 1,78m, chiều dày cửa 2,4m. Hai bên cổng đặt 2 con sư tử. Hai con sư tử được đắp bằng vôi cát; hai bên cửa chính đắp đôi câu đối. Phía trên đắp hàng chữ Thượng đẳng tối linh từ, trên nóc đắp rồng chầu mặt nguyệt. Phía trong cửa chính đắp nổi hai ông Lãng quan đứng hai bên để canh cửa, đầu đội mũ chóp, tay cầm gươm, chân đi ủng vận xà cạp, mình mặc áo giáp, lưng đeo đai. Tượng có chiều cao 1,75m, dưới chân 2 ông Lãng quan được đặt 2 bát hương. Vào nghè thường đi qua 2 cổng phụ. Từ nghinh môn vào sân tế 5,2m.
Sân: Sân có chiều rộng 12,5m, chiều dài 13,9m, nền sân lát gạch bát đỏ. Ở giữa sân xây bệ cao hơn mặt sân 0,30m, bệ sân có chiều rộng 7,0m, chiều dài 10,0m để thuận tiện cho mỗi khi tế lễ. Xung quanh là hệ thống tường rào bao bọc, tường xây cao 1,8m.
Nhà tiền đường: Nghè được đặt theo hướng nam, khuôn viên đất đai rộng rãi hài hòa với không gian kiến trúc của ngôi nghè.
Trước kia, nghè được cấu trúc theo kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung kết cấu theo chiều dọc. Hiện tại chỉ còn lại 5 gian nhà tiền đường. Nhà tiền đường dựng trên nền cao hơn mặt sân 1m (5 bậc lan giai), xung quanh bó vỉa gạch, riêng bờ hiên lát bằng những phiến đá xanh to chạy hết chiều dài hiên. Viên đá dài nhất là 0,90m, rộng 0,26m.
Nhà tiền đường có cấu trúc 5 gian, 2 dĩ; có chiều dài 12,32m; chiều rộng 7,35m; lòng nhà rộng 5,45m, hiên rộng 1,9m.
Kích thước theo chiều dọc ngôi Tiền đường như sau:
Dĩ đầu đốc đông: 0,45m.
Gian thứ nhất rộng: 2,10m.
Gian thứ hai rộng: 2,28m.
Gian thứ ba rộng: 2,45m.
Gian thứ tư rộng: 2,33m.
Gian thứ năm rộng: 2,18m.
Di đầu đốc tây rộng: 0,45m.
Cấu trúc theo chiều ngang gồm 5 hàng chân cột, hai hàng cột cái trước, sau, hai hàng cột quân trước, sau; một hàng cột hiên.
Khoảng cách từ giọt tranh đến cột hiên: 0,67m.
Khoảng cách từ cột hiên đến cột quân trước: 1,22m.
Khoảng cách từ cột quân trước đến cột cái trước: 1,3m.
Khoảng cách từ cột cái trước đến cột cái sau: 2,4m.
Khoảng cách từ cột cái trước đến cột quân sau: 1,25m.
Khoảng cách từ cột quân sau đến tường hậu: 0,85m.
Hệ thống cột có kích thước:
Cột cái có chiều cao 4,23m, đường kính 0,83m.
Cột quân có chiều cao 3,9m, đường kính 0,73m.
Cột hiện có chiều cao 2,45m, đường kính 0,63m.
Kích thước chân tảng cột cái 0,45m x 0,45m.
Kích thước chân tảng cột quân 0,42m x 0,42m.
Kích thước chân tảng cột hiên 0,33m x 0,33m.
Chiều cao từ thượng lương xuống nền nhà 4,3m.
Tổng thể nhà tiền đường có 28 cột gỗ. Gồm 10 cột cái, 12 cột quân, 6 cột hiên, vì 3, 4 trốn 2 cột cái trước. Nghè gồm 5 gian, 6 vì kèo gỗ, mỗi vì có 5 cột có kết cấu cân đối. Gồm gian (1, 2) đối xứng với gian (5, 6) qua gian giữa (gian 3).
Các vì kèo liên kết với nhau theo kiểu giá chiêng, chồng trường, kẻ hiên, bẩy sau; vì 1 đối xứng với vì 6; vì 2 đối xứng với vì 5; vì 3 đối xứng vì 4. Tất cả các vì kèo đều liên kết với nhau theo một kiểu cấu trúc bộ khung gỗ chắc chắn.
Kết cấu vì kèo (1, 6) giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết. Chủ yếu là theo lối giá chiêng chồng rường, kẻ chuyền. Ở đây bộ vì kèo được cấu trúc gồm 5 hàng cột liên kết với nhau bằng hệ thống xà lòng, câu đầu, trụ đứng.
Ở vì kèo này, quá giang ăn mộng vào đầu cột quân trước, sau chạy xuyên qua thân cột cái trước, sau. Hệ thống quá giang làm nhiệm vụ như một xà lòng. Ở phía trên, câu đầu ăn mộng vào đầu một cái, phía trên câu đầu là hai trụ đứng, đứng trên bát đấu. Tại đấu trụ này các con rường chồng lên nhau ăn mộng vào thân trụ đứng làm nhiệm vụ đỡ guốc thượng lương.
Để liên kết hệ thống cột, câu đầu, trụ đứng là hệ thống kẻ được ăn mộng vào cột quân ở mái trước, sau, kẻ ngồi trên đầu trụ, kẻ cong là điểm giữa nối trụ đứng và câu đầu theo cấu trúc dọc. Thứ tự từ trên xuống dưới gồm có hệ thống kẻ ngồi, kẻ cong cuối cùng ở mái sau là bẩy sau gác lên tường hậu, kẻ hiên gác lên đầu cột hiên.
Phía ngoài hiên xà nách vươn ra ngoài hiên đến tận sát mái. Trên xà nách trụ đứng đỡ các con rường. Con rường thứ nhất một đầu ăn mộng vào thân trụ, một đầu gắn vào đầu cột hiên, con rường thứ hai một đầu gắn vào đầu cột quân, một đầu gắn lên đầu trụ đứng qua bát đấu, lần lượt các con rường chồng lên nhau tỷ lệ hẹp lại dần theo kết cấu mái. Phía dưới xà nách kẻ hiên đỡ tàu mái hiên.
Kết cấu vì kèo (2, 5) giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết theo kiểu giá chiêng, chồng rường, kẻ chuyền. Đặc điểm của vì kèo này được cấu trúc gồm: Hai hàng cột cái trước, sau, hai hàng cột quân trước, sau, một hàng cột hiện đều đứng trên hệ thống chân tảng.
Ở vì kèo này quá giang ăn mộng vào đầu cột quân trước, sau chạy xuyên qua thân cột cái trước, sau. Hệ thống quá giang này làm nhiệm vụ như một xà lòng. Phía trên câu đầu là hai trụ đứng đứng trên bát đấu đỡ trường bụng lợn tạo thành vì nóc, ở đây các con rường chồng lên nhau qua đấu kế tạo thành tam giác gọi là vì nóc.
Để liên kết hệ thống cột, câu đầu, trụ đứng là hệ thống kẻ được ăn mộng vào đầu cột cái, đầu cột quân sau, gồm hệ thống kẻ ngồi, kẻ cong cuối cùng ở mái sau là bấy gác lên tường hậu.
Mái trước cột cái nối với cột quân bằng xà nách, trên xà nách các con rường ăn mộng vào cột cái tạo thành một tam giác vuông gọi là cốn. Những con rường này còn gọi là rường cánh. Ở ngoài hiên xà nách vươn ra đỡ các con rường xếp chồng lên nhau qua những đấu kê, các con rường này tạo thành hình tam giác.
Kết cấu vì kèo (3, 4) giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết theo kiểu giá chiêng, chồng rường, kẻ chuyền. Đặc điểm của vì kèo này được cấu trúc gồm 2 hàng cột quân trước, sau, một hàng cột cái sau, (trốn hàng cột cái trước), một hàng cột hiên. Ở vì kèo này có đặc điểm như sau:
Quá giang ăn mộng vào đầu cột quân trước, phía sau ăn mộng vào thân cột cái và đầu cột quân sau. Ở đây trốn hàng cột cái trước với mục đích mở rộng lòng công trình, tăng giá trị sử dụng.
Phía trên quá giang ở mái sau, cột cái vươn ra sát mái, làm nhiệm vụ như một trụ đứng. Ở mái trước, trụ đứng đứng trên bát đấu nằm trên quá giang vươn tới sát mái nhà. Để liên kết đầu một cái với trụ đứng là thanh xà lớn. Phía trên câu đầu hai trụ đứng đỡ rường bụng lợn, tạo thành vì nóc. Trên vì nóc này các con rường gắn vào trụ đứng xếp chồng lên nhau qua các đấu tạo hình tam giác gọi là vì nóc trên cùng là bát đấu nằm ngang đỡ guốc thượng lương. Ở mái sau, kẻ ăn mộng vào cột quân sau ngồi trên đấu trụ theo kết cấu dọc từ trên xuống dưới có kẻ ngồi, kẻ cong cuối cùng là bẩy sau đứng trên tường hậu đỡ mái sau.
Từ câu đầu trở xuống đến mái hiên là hệ thống kẻ chuyền. Phía ngoài hiên đuôi kẻ ăn mộng vào đầu cột quân trước vươn ra đỡ tàu mái.
Hệ thống liên kết của bộ khung là hệ thống liên kết chặt chẽ theo ba chiều không gian, với kỹ thuật mộng ghép chặt chẽ gồm (xà thượng, xà hạ, xà thế hoành), hệ thống rui, mè bằng gỗ, lợp mái ngói mũi hài, giữa đỉnh mái đắp hổ phù, hai bên đỉnh trụ đắp cá hóa long, bờ chảy đắp hình con triện ở hai đầu hồi.
Cửa: Nhà tiền đường gồm 5 gian, phía trước hai gian (1,5) xây bịt kín, 3 gian giữa mở ba chuông cửa ra vào. Mỗi chuông cửa có 4 cánh, cánh rộng, 40m, mỗi chuông cửa có 4 cánh, cánh rộng 0,40m, mỗi chuồng rộng 1,60m, cửa cao 1,67m, bạo cửa rộng 0,5m x 0,4m, chiều cao khung cửa 1,72m. Toàn bộ 3 chuồng cửa đứng trên hệ thống ngưỡng cửa bằng bỗ, ngạch cửa dụng gạch trái xi măng cát mặt ngoài, ngạch cửa cao 0,22m. Ngưỡng cửa cao 0,13m, dày 0,25m, đặt các lỗ chốt cửa. Phía trên ba chuông cửa trang trí bức xuân hoa.
Nghệ thuật chạm khắc:
Ngoài kiến trúc thì nghệ thuật điêu khắc là một trong những yếu tố không thể thiếu được để đưa ngôi đền lên tầm giá trị nghệ thuật cao, phản ánh được tính chất và tư tưởng chỉ đạo của ngôi đền.
Nghè Đại Bái được nghệ nhân chạm khắc các mảng trang trí ở tất cả các cấu kiện trong công trình nhưng chú trọng phô trương các mảng chạm ở hệ thống các bức cốn, kẻ hiên. Đề tài trang trí chủ yếu ở công trình này là hoa, lá các cách điệu ngoài ra còn thể hiện tả thực ở các bức chạm mộc mạc, sinh động như hình chim phượng, cảnh chim, thú, cá, cua, rùa bơi lội tung tăng trong hồ nước. Tất cả các mảng chạm được nghệ nhân thể hiện ở các vì như sau:
Vì thứ nhất (tính từ đông sang tây)
Các con rường ở bức cốn chạm nổi hình hoa lá cúc cách điệu, xà nách chạm khắc là cúc to mập trên toàn thân, kẻ hiên chạm nổi hình cá hóa long.
Vì thứ hai: Trên bức vì ruồi chạm hình hổ phù đỡ guốc thượng lương với dáng điệu: trán dô, mắt lồi, mũi to hai bên mặt hổ phù là hình lên chầu. Ngoài hiên bức cốn, đầu các con rường chạm hoa, lá cúc cách điệu, thân trụ khắc hình chữ thọ, kẻ hiên chạm nổi mai hóa rồng, chim, sóc, bát đấu trụ chạm khắc hình hoa, lá sen, quang đèn. Bức con trong lòng nhà phía trên và nách. Các con rường chủ yếu chạm khắc lá cúc cách điệu, hình chim phượng, lân, ngựa hóa.
Vì thứ ba: Trên vì ruồi chạm hình hổ phù. Hai bên mặt hổ phù là hình lân châu, các con rường chạm hình lá cúc cách điệu, bẩy sau chạm nổi hình phượng, long, ly hóa, thân và nách chạm khắc đậm cá hóa long, kẻ hiên mặt ngoài chạm hình cá chép hóa long, mõm kẻ khắc rùa, cá, cua đang bơi lội trong hồ nước dưới đầm sen bằng những lá sen úp ngược, bề mặt bụng kẻ trang trí đề tài ngũ phúc (5 con dơi), ngũ phúc kiến kim tiền, nghĩa 5 con dơi hiến tiền vàng, một mặt kẻ trang trí hình chim sóc, bướm lá cúc cách điệu, hoa mai vàng, mõm kẻ khắc hình mai hóa long.
Vì thứ tư: Phần vì ruồi trang trí như vì thứ ba, kẻ hiên một mặt chạm cá hóa long, phượng hóa, bụng kẻ trang trí (phúc hiến thọ), một mặt trang trí con vật đang bơi lội trong hồ sen, đầu mõm kẻ trang trí hai con sóc ôm cành nho. Bẩy sau mõm bẩy chạm cá hóa long, lá cúc cách điệu.
Vì thứ năm: Nóc chạm đối xứng vì thứ hai, tấm ván mê trong lòng nhà các con rường chạm bong lá cúc, hình chim phượng, lân, quy đang bơi trong hồ nước, mõm kẻ chạm cảnh sinh hoạt trong đầm nước như cua, rùa, vịt, lá sen úp ngược.
Vì thứ sáu: Bức con ở ngoài hiên các con rường chạm bóng hình lá các cách điệu, hai con lân châu hình chim phượng xòe cách rộng. Kẻ hiên chạm bóng hình lá cúc, hình hài con chim phượng vờn nhau.
Ba bức xuân hoa ở phía trên ba chuông cửa nhà tiền đường, phía trên chuồng của gian thứ hai có bức xuân hoa được trang trí hình ở các ô đối xứng nhau, ô đặt con tiện, ô chạm nổi trên tấm ván nong đề tài trang trí mai hóa rồng, cúc hóa long.
Bức xuân hoa ở gian thứ ba được chia làm nhiều ô và nghệ nhân chạm nổi trên các ô như đề tài mại hóa, cúc hóa long, chữ thọ, chim hạc ẩn trong hoa lá cách điệu, đề tài trang trí ấm trà, lư hương (bộ đồ thờ thu nhỏ). Đề tài chim công, cây mai, cúc hóa long, hình bầu rượu ẩn trong đào tiên, hình quả mai cách điệu.
Bức xuân hoa gian thứ tư: Chạm nổi đề tài ngũ nhạc sách ẩn, bầu rượu, túi thơ, mai hóa long. Đề tài chính ở các khuông là tùng, cúc, trúc, mai.
Nghè Đại Bái có nét đặc trưng điêu khắc gỗ. Về không gian kiến trúc phong phú để cho nghệ nhân thể hiện trang trí trên các cấu kiện gỗ.
Hệ thống chạm lộng, chạm bong, chạm nổi nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều chủ đề với sự cường điệu về khối, hình nét làm cho hệ thống khung gỗ trở nên sinh động, hệ thống các vì có mảng kiến trúc giống nhau với nhiều đề tài phản ánh tâm thức nông nghiệp toát lên ý tưởng của người nghệ sỹ. Các vì chia gian nghệ nhân chú ý chạm khắc ở những nơi thoáng mát kỹ thuật chạm lộng, chạm bong, chạm nổi tạo ra các hình trang trí nhiều tầng, nhiều lớp từ thân gỗ.
Các mảng chạm dày đặc trên tất cả thành phần của kiến trúc ở bên trong cũng như bên ngoài trên 6 vì kèo. Những hình rồng, phượng, ngựa, rùa, chim, sóc, cá chép nô đùa trong một không gian sinh tụ hình lá sen, chim sẻ, cây mai,...ở đây toàn bộ các bức chạm phủ kín diện tích phù điêu, cho ta thấy được cái tinh xảo của mảng chạm, đường nét mềm mại, thể hiện rõ trí tuệ sáng tạo của nghệ nhân dân gian, mô tuýp cây, hoa, lá cúc làm chủ đạo, các mảng chạm đã thể hiện và hướng tới thế giới vô hình qua các linh vật huyền thoại như long, ly, quy, phượng,...Nghệ thuật trang trí ở nghè Đại Bái, bố cục, trang trí, chạm khắc, biểu hiện tính tạo hình cao. Đây thực sự là những tác phẩm hoàn hảo đến mức điêu luyện làm tăng thêm vẻ đẹp cho công trình, vừa tạo nên sự ấm áp linh thiêng đối với nhân dân trong làng, vùng và du khách thập phương khi đến dâng hương.
Bên cạnh điêu khắc ở nghè Đại Bái nghệ nhân còn thể hiện chạm khắc trên bức xuân hoa, tuy số lượng không nhiều, theo chủ đề tứ quý tứ linh, ngũ nhạc, sách ẩn bầu rượu, túi thơ, tùng, trúc, cúc mai hoặc bộ đồ thờ thu nhỏ.
Bài trí các đồ thờ tại nhà tiền đường Chính gian giữa nhà tiền đường phía trên và hạ đặt bức đại tự.
Tại gian giữa xây bệ thờ bằng xi măng có chiều cao 1,7m, dài 1,96m gồm 3 bậc.
Bậc trên cùng có chiều dài 1,96m, rộng 0,50m, trên bệ thờ trong cùng đặt long ngai gỗ cao: 0,80m, dài 0,50m, rộng 0,40m.
Bài vị ghi thờ Cao Các, Cao Sơn thượng đẳng tối linh thần. Trên bệ thờ đặt bát hương, lư hương đồng v.v...
Bậc thứ hai có chiều rộng 0,45m, thờ các vị quan tước các chi giáp trong thôn như: Hoàng Doãn Vũ, Lê Long Uyên, Lê Văn Hiển, trên bệ thờ đặt bát hương, lư hương, hạc đồng, vv...
Bậc thứ ba: Thờ Hội đồng, nơi để hòm sắc, bát hương và các đồ tế tự.