Tên di sản : Nghè Cáy
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 2382/QĐ-UBND
Giới thiệu
Theo các cụ cao niên ở làng kể lại thì trước kia nghè được xây dựng rất lớn gồm có sân gạch, 5 gian tiền đường phía trước và một hậu cung phía sau. Do hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt và hoàn cảnh chiến tranh để lại nên ngôi tiền đường đã bị phá hủy hoàn toàn, nghè chỉ còn lại một hậu cung còn tương đối nguyên vẹn.
Toàn bộ diện tích đất sân phía trước của di tích đã được chi hội người cao tuổi trồng cây phủ xanh, ngôi tiền đường nay chỉ còn lại khoảng đất trống.
Hậu cung của di tích còn lại tương đối nguyên vẹn, trong đó chiều dài là 5m, rộng 4m, nhìn tổng thể di tích gồm có 3 mái, hậu cung quay về hướng Nam. Phần mái trước của di tích đắp lưỡng long chầu nhật, phía trên trang trí hình cuốn thư được đắp nổi chim phượng, hai bên có hai sư tử chầu, 4 con kìm của mái được đắp 4 đầu rồng.
Hai bên được lợp ngói và được chia làm hai tầng mái. Vào trong di tích ta gặp ngay bức đại tự có bốn chữ: “Hiển Thừa Vô Xạ” tạm dịch nghĩa là: Người đời sau phải nhớ công ơn của người đời trước.
Toàn bộ hậu cung được cấu tạo bởi vòm cuốn bằng gạch và vôi vữa cổ truyền.
Chiều dài hậu cung: 7,85m; Chiều rộng hậu cung: 5m; Tường ngoài dày: 0,40m; Hè rộng: 150m; Tường bờ long cốt dày: 0,30m; Gian ngoài dài: 2,5m; Cột vuông: 0,35m; Gian trong dài: 2,5m; Cửa nách hai bên rộng: 0,50m; Cột hai bên dài: 0,70m, rộng 0,30m; Lối giữa rộng: 2,70m; Tường hai bên dày: 0,60m; Tường hậu dày: 0,30m; Vòm trần cao: 4,8m; Vòm hông cao: 3,3m.
Vòm võng có tác dụng chịu lực như một vì kèo cao 3,5m. Ở vị trí vòm võng có trang trí rồng chầu mặt nguyệt, sát vòm cuốn có hàng chữ đề niên đại: “Hoàng Triều Thành Thái Ất Tỵ niên thập nguyệt cát nhật lương thời trạch tạo đại cát vượng” (ngày tốt tháng mười năm Ất Tỵ (1905) thời Thành Thái). Hai bên cột của vòm cuốn có trang trí hình rồng chầu, phía trên có trang trí hai chim phượng trong tư thế của hai rồng chầu.
Phía trong cùng của hậu cung có vẽ trang trí lưỡng long chầu nguyệt và các hoạ tiết vân mây.
Hệ thống thờ tự trong di tích hiện chia thành 4 lớp thờ. Ban thờ của 3 lớp trên được xây cùng thời với hậu cung vì chất liệu của gạch và vôi vữa cũng giống như kết cấu của ngôi nhà.
Long bài 2 cái giống nhau mặt trước có chữ (hộ quốc) mặt sau có chữ (tý dân).
Bộ binh khí còn lại 6 chiếc (trong bộ bát bảo khí).
Bảng văn hiện tại đã bị bong hết chữ.
Ngoài ra, trong nghè còn có một Long đình (cổ) có chiều cao cả chân và chóp là 2,9m, rộng mặt nước 97cm, hông rộng 100cm, chóp trụ cao 25cm, vuông 4 cạnh, có hoa văn mái trên cao 20cm (4 cạnh đều có đầu rồng); cổ diêm cao 20cm, rộng 24cm, vuông 4 cạnh. Mái chính cao 28cm, rộng 96cm, 4 góc đều có 4 đầu rồng.
Hiện vật trong di tích:
Long ngai (gỗ) 5 cái (thế kỉ XIX); Kiệu song loan (gỗ) 1cái (thế kỉ XIX); Bát hương (gỗ) 6 cái (thế kỉ XIX); Đài nước (gỗ) 6 cái (thế kỉ XIX); Mâm bồng (gỗ) 5 cái (thế kỉ XIX); Đài nước (đồng) 6 cái (thế kỉ XIX); Chân đèn (gỗ) 4 cái (thế kỉ XIX); Chân đèn (đồng) 2 cái (thế kỉ XIX); Lư hương (đồng) 2 cái (thế kỉ XIX); Ống hương (gỗ) 2 cái (thế kỉ XIX); Chuông (đồng) 1 cái (thế kỉ XIX); Hạc (sứ) 2 con (thế kỉ XIX) Hương án (gỗ) 1 cái; (thế kỉ XIX); Bảng văn (gỗ) 1 cái (thế kỉ XIX); Bài vị (gỗ) 1 cái (thế kỉ XIX), Long bài (gỗ) đôi (thế kỉ XIX); Lọng đình (gỗ) 1 bộ (thế kỉ XIX).