Tên di sản : Mộ và Đền thờ Hoàng Bùi Hoàn

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : 1455/QĐ-BVHTTDL

Giới thiệu

Đền thờ:

Để nhớ công đức, ơn nghĩa của Vệ Quốc Công Hoàng Bùi Hoàn, ngay sau khi ông mất, nhân dân 2 huyện Quảng Xương và Đông Sơn đã xây dựng đền thờ và mộ tại làng Câu Đồng Nội, xã Quảng Trạch, Quảng Xương, Thanh Hóa. Đền có bố cục hình chữ Đinh gồm tiền đường 3 gian, chính tẩm 2 gian. Phía trước tiền đường có sân rộng, tiếp đến ra phía ngoài có 2 tám bia đá dựng đối xứng 2 bên lối vào ghi khắc chữ Hán về lịch sử dòng họ Hoàng và thân thế sự nghiệp của người được thờ có nhà che bia làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái. Phía ngoài cùng là cổng đền. Hai bên trục “thần đạo” có nhóm tượng chầu bằng đá như: voi, ngựa, chó đá được bài trí đối xứng. Hiện tại đền thờ Hoàng Bùi Hoàn nằm trong một không gian có mặt bằng tổng thể bao gồm các hạng mục: Cổng – Sân – Nhà tiền đường – Nhà hậu cung.

Mộ tướng công Hoàng Bùi Hoàn:                                               

Mộ Hoàng Bùi Hoàn cách đền thờ 300m theo đường chim bay về hướng Đông, thuộc về cánh đồng Lăng, xóm Đồng, trên diện tích: thửa số 1022, 1023, 1024 tổng diện tích là 627m2 ở trên than đất cao 0,4m so với mặt ruộng. Mộ có hình gần vuông: cạnh Đông – Tây (mặt Nam) dài 8,67m, cạnh Bắc – Nam (mặt Đông) dài 8,72m, xung quanh các mặt bao bởi những phiến đá đen mịn có kích thước mỗi viên dài từ 0,6 đến 0,73m, rộng 0,3 – 0,4m, cao từ 0,17m – 0,19, xếp thành 7 hàng chồng lên nhau, hàng trên cùng mỗi viên dài 1,35 – 1,4m, cao 0,24m, tạo gờ chỉ vạt chéo hai cạnh, chiều dài giống như mái nhà truyền thống, úp chờm lên thành bao. Thành đá có chiều cao tính từ nền mộ là 1,46m đá phẳng nhẵn, xếp khan không dung chất kết dính.

Các tác phẩm nghệ thuật chạm khắc đá:

Hai bia ở đền thờ Hoàng Bùi Hoàn đều được làm bằng đá nguyên khối đặt đối xứng nhau có kích thước tương tự, cao: 1,83m, rộng 1,25m, dày 5,9m. Cả hai bia dựng năm Bảo Thái thứ 5 (1724).

Bia Tướng Công:

Cấu tạo bia gồm 3 phần: Mũ bia, thân bia và đế bia.

Mũ bia: chia làm 2 phần gồm khay đài chóp bia và chóp bia.

Thân bia: Được bố cục như một cái khay, phần viết văn bia là một mặt phẳng chìm, được viền bởi khung hình chữ nhật cao hơn. Đường khung tiếp giáp với mũ bia là trán bia dài 0,91m, cao 0,125m được chia làm 6 ô vuông, 4 ô khắc chữ Hán kiểu chữ chân “Tướng công bi ký”, hai ô còn lại chạm hình long hóa với kỹ thuật chạm nổi.

Đế bia: Gồm 3 cấp, cấp thứ nhất dài 1,35m, rộng 0,71m, cấp thứ 2 dài 1,51m, rộng 0,87m, cấp thứ 3 dài 1,62m, rộng 0,98m.

Bia ký Tướng Công họ Hoàng Bùi:

Bia cao 1,87m, rộng 1,15m, dày 0,37m, có 32 hàng chữ, hàng nhiều nhất có 38 chữ, trang trí phần riềm trán bia ở hướng đông có nét khác với riềm trán tấm bia trước. Các họa tiết long hóa gồm đầu, mũi, mắt rồng được nghệ sĩ chạm rõ nét. Đây là hiện tượng ít thấy trong các đồ án trang trí trên bia ký thuộc về “bề tôi”, rồng là hình tượng chỉ được chạm trên các bia ký thuộc về các bậc vua chúa, thiên tử. Hai tấm bia được dựng vào mùa hè năm Bảo Thái thứ 5 (1724), văn bia do tiến sĩ Lê Vĩ soạn.

Loại bia dá có chóp mũ, tạo đường viền nổi quanh thân bia như ở đền thờ Tướng công Hoàng Bùi Hoàn là phong cách điển hình của loại bia đá được dựng vào thế kỷ  XVII – XVIII và có thể sau này nhà Nguyễn tiếp thu khá phổ biến ở thế kỷ XIX.

Hương án:

Tại vị trí gian giữa nhà tiền đường liền kề nhà hậu cung đặt hương án bằng đá, đây là di vật được trang trí nhiều mô típ hoa văn nhất, có kích thước dài 1,56m, rộng 0,77m, cao 1,09m liền khối với bệ, dài 1,65m, rộng 0,78m, cao 0,21m, kỹ thuật chạm nổi, chìm, nét to rõ, cầu kỳ với những mô típ tương đồng cả 4 mặt. Hương án chia làm 3 phần, trong mỗi phần thể hiện đề tài trang trí khác nhau.

 Bàn sắp lễ:

Tại cửa ra vào gian giữa nhà tiền đường, ở 2 bên đặt 2 bàn đá đối xứng nhau có kích thước như nhau, trang trí như nhau, được tạo tác từ hai khối đá liền. Bề mặt bàn đá có chiều dài 1,14m, rộng 0,46m, cao 0,7m. Cấu tạo chia làm ba phần, phía trên xà thượng treo bức đại tự đề hang chữ Hán: “Quận Trọng Triều nghĩa là: “Quận công quan trọng trong triều đình”, sơn son thếp vàng, không trang trí cầu kỳ.

Sập thờ:

Tại gian giữa nhà hậu cung đặt sập thờ bằng đá nguyên khối, trang trí hoa văn mặt trước, 3 mặt để trơn. Sập thờ có kích thước dài 1,73m, rộng 1,25m, cao 0,275m; được tạo tác theo kiểu chân quỳ dạ cá. Các mô típ hoa văn hình lá đề, vân mây xoắn, vân mây hình đao mác chạm nổi trên mặt chính diện. Bốn chân quỳ chạm hoa văn hình đao mác phủ kín bằng kỹ thuật chạm nổi, nét kép. Có thể nói sập thờ bằng đá là tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đá tiêu biểu đặc sắc đầu thế kỷ XVIII còn nguyên vẹn hình dáng và hoa văn.

Đôi hạc đứng trên lung rùa:

Đôi hạc đứng chầu ngay sát cạnh hương án được tạc bằng đá nguyên khối cao 1,85m, rộng 0,4m, đứng trên lưng rùa, bằng chốt mộng chìm rất vững chai. Rùa đội hạc cũng được tạc từ khối đá nguyên, chia thành hai phần rõ rệt: đế và rùa. Phong cách chạm chim hạc và rùa theo lối tả thực, chi tiết, đường chạm sâu hiện rõ từng bộ phận. Chim Hạc, mỏ, móng vuốt, long vũ, long mào nổi to rõ. Mai rùa chạm trổ hình khối như cánh hoa sen, 4 chân to khỏe duỗi thẳng, cổ ngay ngắn hướng về phía trước.

Hai ngựa đá:

Hai con ngựa trong tư thế đứng chầu, thân ngựa dài 1,75m, rộng 0,62m, cao 1,39m, đứng ngay ngắn trên bệ có kích thước nhỏ hơn; bệ dài 1,13m, rộng 0,4m, dày 0,08m, cổ đeo chuỗi lục lạc, chuông gồm 7 quả, yên, cương được trang trí bởi nghệ thuật chạm tinh tế, hoa văn nổi rõ như tranh vẽ trên yên ngựa hình giống lá đề, có đường viền riềm rộng bản bao quanh, trang trí 5 bông hoa cách điệu, bàn đạp buông thẳng giữa phần bụng, hình độc long uốn khúc như ôm lấy bàn đạp trong không gian như đám mây cuộn tròn và mây hình đao lửa. Liền kề yên ngựa có mảng trang trí trên tấm che phủ mông ngựa vắt qua lưng bởi hai sợi dây và kéo dài tới tận khuỷu chân sau; đuôi ngựa dài quá khuỷu, yên ngựa uốn cong ôm sát trên lưng và bụng có 7 chấm tròn bố cục dọc chiều dài yên ngựa tạo dáng chắc khỏe.

Hai voi đá:

Hai voi có kích thước khác nhau đôi chút, có lẽ nghệ sĩ muốn thể hiện quy luật tương hỗ Âm, Dương được đặt đăng đối hai bên đường thần đạo. Tượng voi bên hữu dài 1,72m, rộng 0,71m, cao 1,15m trong tư thế quỳ phục, hai chân sau quỳ gập, hai bàn chân ngửa hướng về phía đuôi. Toàn thân voi hướng về phía trước. Nhìn tổng thể toàn bộ tác phẩm là những đường cong, dáng tả thực, không bị nặng nề. Voi là con vật bản địa, trong nghệ thuật điêu khắc rất phổ biến ở thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn. Tượng voi bên tả có kích thước to hơn voi bên hữu một chút, trong tư thế giống voi bên hữu.

Hai chó đá:

Ngay vào cổng được đặt hai chó đá ở hai bên có kích thước và tư thế tương tự nhau. Mỗi con có chiều cao 0,9m, dài 0,6m, rộng 0,34m. Chó đá trong tư thế ngồi chầu, hai chân sau thu về phía bụng, hai chân trước chống thẳng, mắt mở to nhìn thẳng, lộ rõ vành mắt, đôi tai to hơi cúp, miệng ngậm, thân hình mập, ngồi trên bệ đá liền khối, cổ đeo vòng có chuông lục lạc. Toàn thân con vật được tạo bằng những khối tròn nhẵn, toàn thân đóng kín, cấu trúc vững trãi, bố cục chặt chẽ. Con chó như đang ngồi nghe ngóng, dáng nhanh nhẹn. Chắc hẳn nghệ sỹ khi tạc tượng chó hiểu rõ đặc điểm nên tạo hình rất sống động.

Hình ảnh Mộ và Đền thờ Hoàng Bùi Hoàn

Mộ và Đền thờ Hoàng Bùi Hoàn

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật