Tên di sản : Lăng, Bia, Đền thờ Nguyễn Văn Nghi

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : 1539-QĐ

Giới thiệu

Đền thờ với tổng diện tích là 26.345m2, trong đó số hồ chiếm 6.505m2, còn lại là chu vi thành ngoại bao quanh thành nội và khu nội điện. Khu vực xung quanh đền thờ là đồng ruộng trải rộng nhìn về núi Đọ và dãy núi Hàm Rồng, phía Đông khoảng 2km theo đường chim bay. Phía Đông Nam là 2 ngọn núi Bạch Thạch, Đào Sơn – di tích cổ thời kì văn hóa Đông Sơn như án ngữ trước mặt cách xa không đầy 1km theo đường chim bay. Phía Nam là thôn Phúc Triển, phía Tây Nam giáp với xã Thiệu Trung – quê hương của nhà sử học Lê Văn Hưu. Với địa thế trên, có nhiều thuận lợi trong việc xây dựng các cụm thắng cảnh phục vụ công tác nghiên cứu và tham quan du lịch.

Đền thờ đã qua 2 lần tu sửa và mở rộng quy mô kiến trúc. Lần thứ nhất vào năm 1628 do Đặng quận Công Nguyễn Khải (con trai thứ 2 của Nguyễn Văn Nghi đứng ra tu sửa). Tiếp đó là được Lê Khắc Tuy - Tri phủ huyện Hồ Trung (cháu ngoại Nguyễn Văn Nghi) chủ trì cùng nhân dân 14 xã trong huyện Đông Sơn mở rộng và tu sử hoàn chỉnh vào tháng 9 năm 1631 để có quy mô như hiện nay.

Bố cục mặt bằng: Theo kiểu “Nội công ngoại quốc” bao gồm 2 vòng thành khép kín: Thành đất ở ngoài (gọi tắt là thành ngoại), thành đá phía trong thành ngoại là thành nội. Bên trong thành nội có các cụm kiến trúc gỗ được xây dựng theo hình chữ Công, chữ Tam, chữ Nhị, chữ Nhất. Nhóm tượng chầu bằng đá: Chó - voi - ngựa - võ sĩ - bia ký…được bài trí trên trục đường từ công thành ngoại và đến thành nội (Tướng công môn).

Đặc điểm nổi bật trong bố cục tổng thể mặt bằng là: kéo dài theo hình chữ nhật, chỉ mở 1 trục đường duy nhất từ Nghinh môn đến Chính điện (không có cổng phụ).

Về nghệ thuật kiến trúc: chia làm 2 loại: Kiến trúc gỗ và kiến trúc thành đá (nhóm điêu khắc đá).

Tóm lại, đền thờ Nguyễn Văn Nghi là một di tích kiến trúc nghệ thuật có quy mô lớn và giá trị nghệ thuật cao nửa đầu thế kỉ XVII.

Những hiện vật có trong di tích:

13 tờ sắc phong của các triều đại trong đó:

2 đạo sắc niên hiệu Đức Long năm thứ 7 (1622) đời vua Lê Thần Tông.

1 sắc niên hiệu Vĩnh Thịnh năm thứ 6 (1710) đời vua Lê Dụ Tông (1709  - 1729).

4 đạo sắc niên hiệu Cảnh Hưng (Nguyên niên (1740), năm thứ 28 (1767), năm thứ 40 (1780), đời vua Lê Hiển Tông (1740- 1786)

1 sắc niên hiệu Vĩnh Khang năm thứ 2 (1730) đời vua Lê Đế Uy Phương (1729 - 1932).

2 sắc niên hiệu Tự Đức năm thứ 3 (1850) và thứ 13 (1860) thời vua Nguyễn Dục Tông.

1 sắc niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 2 (1884).

2 sắc niên hiệu Khải Định năm thứ 9 (1924).

3 tấm bia đá:

Bia “Phúc Khê Tướng Công Từ”.

Bia “Lệnh Công Thượng Thư Ký”.

Bia ghi sự việc tu bổ đền thờ gắn ở vách thành bằng đá dài 1,48m; rộng 0,39m.

5 tượng chó ngao đá (tư thế ngồi xổm), 2 tượng bằng đá, 2 voi đá, 2 võ sĩ, giếng ngọc.

Bức đại tự “Sơn Chi Thọ”.

2 bộ khung kiệu bát công.

Mũ thờ.

Long ngai bài vị.

3 chén nạm ngọc.

Bát hương đá.

Hình ảnh Lăng, Bia, Đền thờ Nguyễn Văn Nghi

Lăng, Bia, Đền thờ Nguyễn Văn Nghi

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật