Tên di sản : Khu di tích Bà Triệu

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 00/00/00

Danh mục di sản: Di tích quốc gia đặc biệt,

Giới thiệu

Tại Bản đồ khoanh vùng đất đai các khu vực bảo vệ di tích thì Khu di tích Bà Triệu có tổng diện tích khu vực I là 56.131m2; khu vực II là 128.250,6m2. Toàn bộ khu di tích được phân bố trên một làng quê có núi non, sông ngòi, đồng ruộng, làng mạc tạo thành một bức tranh đa dạng, hội đủ những dạng địa hình tương phản trên một diện tích không lớn.

Đền Bà Triệu:

Về lịch sử dựng đền: Theo truyền thuyết, sau khi Bà Triệu mất, nhân dân làng Phú Điền đã xây dựng đền thờ bà ở sườn núi Gai bằng tranh tre nứa lá để thờ phụng tưởng nhớ đến công đức lớn lao của Bà.

Về lịch sử xây dựng, ngôi đền Bà Triệu phải có trước năm 549 và Bà cũng là người phụ nữ phong kiến Việt Nam đầu tiên được phong tướng. Sau này, Bà Triệu còn được các triều đại phong kiến Việt Nam thời Lê – Nguyễn phong sắc thần linh và Phúc thần của làng Phú Điền.

Khu lăng mộ Bà Triệu:                          

Khu lăng mộ Bà Triệu nằm trên đỉnh núi Tùng – một ngọn núi vừa có đá vôi lẫn đồi đất thuộc dãy núi Tam Đa chạy theo hướng Tây – Bắc và nằm ở phíaTây xã Triệu Lộc. Đây là đoạn chót của dãy núi chạy dọc sông Mã, chân phía Bắc núi là sông Lèn, chân phía nam núi Tam Đa là sông Âu. Trên đỉnh núi Tùng là Lăng mộ Bà Triệu được bao phong thành mộ nổi có tường hoa vây quanh theo đồ án hình vuông. Trước năm 2005, khi chưa trùng tu, tôn tạo thì tổng thể khu Lăng mộ này được xây dựng bằng gạch gồm 3 hạng mục công trình: một ngôi tháp hình trụ vuông ba tầng xây bằng gạch, có chiều cao 3,5m. Ngoài đến tháp, hai tầng trên của tháp được mở 4 cửa ở 4 mặt, tháp có mái chảy, đỉnh tháp gắn hình nậm rượu. Trong lòng tháp được đặt bát hương thờ. Các góc nóc tháp ở mái gắn tượng nghê. Một tháp nhỏ hình trụ vuông đứng bên cạnh. Chếch về hướng tây bắc là ngôi mộ gạch cấu trúc hình trụ vuông bốn mặt gồm có thân mộ và đế mộ. Đế mộ xây đặc, thân mộ mở cửa 4 mặt, đặt bát hương ở lòng mộ, mái mộ cấu trúc hình mái kiệu. Với hình dáng và dấu vết nêu trên cho thấy khu Lăng mộ này được xây dựng vào đầu thế kỷ XX.

Cuối lăng có một tảng đá lớn, khắc hai chữ “Mộ chí” bằng chữ Hán. Năm 2005, Khu Lăng mộ Bà Triệu đã được thực hiện thi công theo đồ án thiết kế của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt.

Về mặt bằng tổng thể: Tại khu lăng mộ Bà Triệu và Ba anh em họ Lý quy hoạch thành một tổng thể thống nhất liên kết với đường vào khu di tích và hệ thống cây xanh.

Về mộ và tháp lăng: Trên cơ sở giữ nguyên hình dáng kiến trúc của mộ và tháp cũ, thay đổi từ vật liệu gạch trát vữa vôi sang đá nguyên khối. Lăng được cấu trúc theo kiểu dáng hình trụ đứng (tứ giác) nhỏ dần về phía đỉnh gồm 2 tầng mái: có chiều cao từ mặt nền đến đỉnh là 5,8m. Mái lăng làm theo kiểu mái kiệu long đình, đỉnh lăng gắn hình nậm rượu. Toàn bộ lăng được chế tác từ đá xanh nguyên khối và lắp ghép lại thành hình khối với trình độ kỹ thuật cao, tinh xảo. Phía trong lòng tháp đặt bát hương. Phía trước mặt chính của Lăng đặt bàn thờ bằng đá.

Mộ được xây dựng cao hơn 0,5m so với nền mộ. Cấu trúc mộ vuông bốn mặt có kích thước 1,5m x 4, chiều cao 2,3m. Mộ được mở cửa hình vòm ra 4 phía. Mái mộ làm theo kiểu mai luyện tạo dáng cong ở các góc, đỉnh mộ gắn quả cầu tròn. Toàn bộ khu lăng mộ này được bảo vệ bởi một hệ thống tường bao thấp xây bằng gạch đặc trát vữa xi măng có kích thước chiều dài 28,20m, chiều rộng là 10,65m, chiều cao là 0,66m.

Mộ Ba ông tướng họ Lý:                                                                                              

Khu mộ ba ông tướng họ Lý nằm sát dưới chân Tùng, được tôn tạo vào những năm đầu thế kỷ XX, dưới hình thức mộ xây gạch, đến trước khi được tu bổ lại vào năm 2005 ở trong tình trạng bị xuống cấp nặng nề. Kích thước mỗi ngôi mộ là 3m x 3m. Phía sau mộ có bàn thờ xây gạch hình chữ nhật dùng làm nơi đặt đồ để tế lễ. Ngoài khu mộ còn có tấm bia đá có kích thước chiều rộng là 0,78m, chiều cao 1,30m, dày 11,5cm; đế là tượng rùa đội bia. Phần trán bia ghi “Kỷ niệm bia chí”, niên đại bia được khắc ghi năm Mậu Thìn, có thể bia được khắc ghi năm Mậu Thìn, có thể bia được dựng năm 1928.

Miếu Bàn thề:

Tương truyền đây là khu vực ba anh em nhà họ Lý tổ chức ăn thề đi theo nghĩa quân của Bà Triệu để đánh đuổi giặc Ngô. Hiện tại khu vực miếu thờ được xây dựng theo hình thức lộ thiên, nằm cạnh bờ ruộng và mương tưới nước thuộc khu ruộng Đồng Bảng của làng Phú Điền. Hiện trạng miếu thờ là một bệ thờ được xây bằng gạch trát vữa xi măng có kích thước chiều dài 2,04m, chiều rộng 1,48, cao 1,38m. Sân miếu và nền đất xung quanh thấp, dễ bị ngập úng khi mùa mưa.

Đình Phú Điền:

Về niên đại xây dựng: Theo các cụ già ở làng Phú Điền cho biết đình Phú Điền được xây dựng từ thế kỷ XVII; thời Lê đình tọa lạc ở rìa làng, đến thời Nguyễn đình được dời về trung tâm làng như hiện nay.

Về không gian kiến trúc: Đình Phú Điền tọa lạc về hướng tây nam nhìn ra núi Tùng Sơn, nơi có Lăng mộ Bà Triệu trên đỉnh núi, gồm các hạng mục công trình: Nghi môn, sân đình, tòa Đại đình.

Về nghệ thuật trang trí: Hầu hết ở các cấu kiện kiến trúc của vì kèo ở nhà Tiền đường đều được trang trí bằng các mảng chạm khắc với những đề tài khác nhau. Ở xà dọc gian giữa là bức chạm bong lớn hình lưỡng long chầu nguyệt với trình độ chạm khắc tinh xảo, kỹ thuật cao. Toàn bộ khung gỗ của nhà Hậu cung được tạo tác hình tròn ở tất cả các cấu kiện, không có chạm khắc. Ở đây các bức chạm khắc chủ yếu tập trung ở bức tường long cốt bằng gỗ trên hệ thống xuân hoa và các bức cốn ở ngoài hiên.

Đền Đệ tứ:

Đền Đệ tứ tọa lạc hướng đông gần khu vực núi Eo ở làng Phú Điền, nên nhân dân còn gọi là Nghè Eo. Hiện nay, tại di tích cũng như địa phương không còn lưu giữ một tài liệu thành văn nào ghi chép về thời gian dựng đền, vì thế, việc xác định niên đại còn phải được tiếp tục nghiên cứu thêm. Tuy nhiên, căn cứ vào dấu vết hiện còn về kiểu dáng kiến trúc cũng như các bức bích họa được vẽ trên tường nhà cho thấy đây là công trình được xây dựng từ thời Nguyễn.

Mặt khác, căn cứ vào các sắc phong còn lưu giữ tại đền trong đó có 01 đạo sắc ghi niên đại sớm nhất vào năm Cảnh Tỵ thứ 5 (1797) cho biết dưới thời Tây Sơn việc phong sắc của triều đình phong kiến cho thần Linh Quang đã được diễn ra; vì vậy, việc dựng đền Đệ Tứ có thể còn có niên đại sớm hơn. Kiến trúc của đền Đệ Tứ có quy mô nhỏ gồm 2 gian xây dọc, cửa đi mở ra tường vỉ, có kích thước chiều dài 6,12m, chiều rộng trung bình 2,88m, cao 3,85m. Phía trong được cấu trúc thành 2 gian gồm Hậu điện và Tiền đường đều xây theo kiểu cuốn vòm, nền lát gạch bát màu đỏ cổ. Hiện trạng của đền đang ở trong tình trạng bị xuống cấp hết sức nghiêm trọng. Các hạng mục: cổng đền, sân, đường vào và hệ thống bàn thờ, đồ thờ cũng ở trong tình trạng hư hỏng, đổ nát, ít có khả năng tồn tại lâu dài. Di tích cần phải được lập quy hoạch tổng thể và tiến hành trùng tu, tôn tạo toàn diện các hạng mục công trình.

Hình ảnh Khu di tích Bà Triệu

Khu di tích Bà Triệu

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật