Tên di sản : Đình làng Yên Tôn Thượng
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 4144/QĐ-UBND
Giới thiệu
Hiện nay ngôi đình còn nguyên vẹn và được dựng theo hướng Nam, trên khu đất rộng thoáng mát với tổng diện tích là: 1334m2.
Đình được dựng theo hướng Nam, trên khu đất rộng, thoáng với chiều dài 20m, chiều rộng 20,6m với tổng diện tích là: 412m2.
Đình được đặt trên mảnh đất bằng phẳng, mặt đình hướng xuống dòng sông Mã, từ đường làng bước lên sân đình phải qua ba bậc tam cấp. Đình có 2 ngôi: Toà đại đình gồm 3 gian hai trái (còn gọi là rẫy), nền đình có chiều dài 20m, chiều rộng 10,6m, địa hình giáp với hậu cung, tạo nên kết cấu hợp nhất kiểu chữ (J) trong kiến trúc cổ còn gọi là chữ Đinh, hình chui vồ. Phần chui vồ là hậu cung hay còn gọi là nội điện (Trung tâm thờ thần). Hậu cung có chiều dài 4m, chiều rộng 3,5m. Với diện tích là 14m2.
Bước vào cổng đình ngay chính giữa trước sân đình là cổng đình, cổng đình được xây 2 cột nanh cao 7m. Cột nanh cổng chia làm 3 phần: đế, thân, chóp. Đế rộng, vuông 4 mặt nỗi cạnh 0,80m, cao 0,80m.
Phần đế thắt lại có đường gờ chỉ, tiếp đến thân trụ thu lại, phần này cao 5m, trang trí 3 mặt còn lại 2 bên giáp tường, chỉ trang trí phía trên, phía ngoài 2 cột có đôi câu đối đã bị rêu phong mờ chữ, 2 mặt trong đối diện cũng được ghi câu đối nhưng cũng bị mờ chữ.
Phần mũ (chóp) được trang trí cả 4 mặt có các đường gờ chỉ nổi trần ra, phía trên nhỏ dần và thắt lại xong lại xoè ra, trên cùng ngày xưa có đội nghê chầu, nay đã bị đổ, phần này cao 1,2m. Qua trụ cổng ra vào sân đình, sân lát gạch vuông 30cm x 30cm. Sân có chiều dài 20m, chiều rộng l mét. Phía trên và 2 bên có tường xây bao quanh. Từ sân lên nền đình qua tam cấp sâu (lược lát bằng những phiến đá xanh có chiều dài chạy suốt cả nền đình, cao hơn mặt sân là 30cm. Ngôi đình 3 gian 2 dãy có kích thước chiều dài 20m, rộng 10,6m, với tổng diện tích là 230m2.
Tính từ phải qua trái gian thứ nhất 2,4m, gian thứ 2 rộng 4,2m, gian thứ 3 (gian giữa) rộng 4,5m, còn 2 gian 4 và 5 giống kích thước của gian 1 và 2. Cấu trúc ngang thân hình có 5 hàng cột, 2 cột cái, 2 cột quân và một hàng cột hiên. Từ cột cái đến cột cái 3,80 m; từ cột cái đến cột quân 1,9m, từ cột quân đến cột hiên 2,1m. Cột cái có chiều cao từ qúa giang xuống đến chân tảng 5,1m, đường kính 1,50m, vừa khít chân tảng, cột quân cao 3,95m. Cột (quân có đường kính trung bình 1,30m. Cột hiên chiều cao 2,3m có kích thước 20cm x 20cm. Phần trên cùng có bát đấu bằng đá đỡ du bẫy. Như vậy nhà đại đình có tổng số 16 cột (cột quân và cột cái bằng gỗ) và đứng trên hệ thống chân tảng có kích thước 50cm x 50cm và 4 cột hiên bằng đá đứng trên hệ thống chân tảng cao 40cm, rộng 30cm.
Có hai cặp đối xứng dọc, mỗi vì có 5 hàng chân cột giống nhau cơ bản kiểu kết cấu hệ thống giá chiêng kẻ hiên là đặc điểm cơ bản về kiểu liên kết chính trong một vì kèo. Nhìn từ chính diện của một vì kèo từ ngoài vào, chúng ta thấy từ cột liệu đến cột quân thực chất là một đòn bẩy, nhưng cả hai đều có cột đỡ nên mang hình thức kẻ hiên. Kẻ hiên này trực tiếp làm nhiệm vụ đỡ các thành tải ở phía trên. Còn đầu bẩy ở đầu cột hiên có thêm một chức năng nữa là đỡ tàu của kết cấu mái chạy suốt chiều dài mái ngói. Phần nối giữa cột cái với cột quân ở phía trong hiên là hệ thống kẻ chuyền được lỡ bởi xà nách gánh đỡ hệ thống mái, đầu xà nách ăn mộng vào 1/3 thân cột cái và đầu và cột quân tạo ra một hệ thống đỡ quá giang. Hệ thống câu đầu ngồi trên quá giang đỡ toàn bộ thượng lương.
Hai vì (2,3) cân đối giống nhau kết cấu kiểu chồng giường giá chiêng kẻ hiên liên kết giữa cột cái với cột hiên là kẻ bẩy chuyền. Từ cột cái qua cột quân ngồi trên cột hiên kẻ bẩy chuyền chỉ soi chứ không chạm khắc hình hoa văn gì.
Hai vì sát hồi (vì 1,4) được kết cấu kẻ giá chiêng kẻ hiên nhưng phần vì nóc đỡ thượng lương được trang trí bức ván bộ có trang trí hình con vật, hổ phù xà thượng, xà hạ, hoành tải đền chạy suốt gắn vào đâu hồi đốc đình. Kẻ bẩy sau không có hàng chân cột này chống đỡ buộc các đầu kẻ bẩy phải đứng hẳn lên tường hậu làm chỗ đứng vững chắc cùng bức tường hậu đỡ toàn bộ lực mái đình sau.
Trên cùng là thượng lương có ghi năm trùng tu đình Hoàng Triều Thành Thái thập nhất niên tuế thứ Kỷ Hợi trong đồng thập nhất nguyệt, nhị thập ngũ nhật kiến trụ thượng lương đại cát.
Giữa đông ngày 22/11/ năm Kỷ Hợi niên hiệu Thành Thái thứ 11 năm 1899.
Bức đại tự được đặt các chữ Thánh cung Vạn Tuế vào từng ô nhất định, các biển bức đại tự có gắn lúc chạm khắc hình rồng chầu mặt nguyệt, hoa cúc cách điệu, đề tài trang trí ở vì kèo, kẻ bẩy, đại tự chủ yếu các linh vật nổi bật là tứ linh, một số thú vật gần gũi với đời sống con người được linh thiêng hóa. Nét chạm đặc biệt ở đình là chạm khắc trên các vì kèo, kẻ hiên hết sức tinh xảo, trên quá giang tinh vi uyển chuyển kể cả trên lá sung và 2 hồi nóc tất cả được trang trí chạm long quần hổ phục chen kiểu cách chạm tứ linh và các con vật, loài hoa như: Rùa, sóc, chim, cá, cua, hoa cúc, lá sen úp ngược. Các kẻ hiên đều được soi và chạm trổ hoa văn, được bố trí ở những nơi thoáng mát, hình tượng các con vật như rồng, rùa, chó, sóc, nét dân gian ở mức độ đủ thu hút người xem. Những con thú này mang cuộc sống và tình cảm con người. Nét trạm chỗ đậm, chỗ nhạt, chỗ to, chỗ nhỏ khi sổ cứng cáp lúc vòng uyển chuyển duyên dáng, sắp xếp khéo léo, tất cả gợi ra bức tranh dân gian, giữ được nét hồn nhiên của người lao động. Điều đáng quan tâm hơn ở đây hai vì đầu hồi và bức chạm ván nong vì giữa được chạm khắc hình tượng con rồng, rồng trong vân mây khúc đuôi cuộn tròn, với hình thức dữ dội, lông mày hình răng cưa, mắt lồi, trán dô, hình con lân dưới dạng Lân - Long - Mã. Hình con rùa được chạm rõ nét nằm dưới hình một lá sen úp ngược trong hồ nước. Ngoài ra còn chạm khắc một con thú như hươu, chim sẻ, thạch sùng cũng được thể hiện trong bức tranh rất thực.
Toàn bộ rui mè, hoành tải đều được làm bằng gỗ. Xà đơn, xà kép được làm bằng gỗ nhưng có hình dáng vuông vắn. Bộ mái được lợp ngói mũi hài, với nhiều loại khác nhau. Chứng tỏ mái đình được tu sửa nhiều lần, trước kia bờ mái được trang trí công phu, ở giữa là hình mặt nguyệt, hai bên là hình rồng chầu đắp nổi, chạy suốt bờ nóc. Nhưng do biến thiên lịch sử bờ nóc mái không còn bóng dáng trong trang trí như trước nữa.
Nối với đại đình là hậu cung, nhà hậu cung mới được nhân dân tu bổ lại, có chiều dài 4,2m, chiều rộng 3,5m, vì kèo gỗ đơn giản, xung quanh xây gạch. Về cấu trúc nó gắn với đại đình tạo nên một không gian thống nhất gọi là hậu cung (nội diên), là nơi hội tụ linh thiêng của làng toàn bộ lợp ngói mũi. Do vậy, đình làng yên Tôn Thượng là di tích lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật.
Các hiện vật trong di tích:
Thần vị: Thần vị cũng được khắc như các thần vị phổ biến ở các đình Việt Nam. Kích thước cao 85cm, rộng 0,45cm. Trên mặt đỉnh thần vị có trang trí hình rồng vân mây, hai bên thần vị được trang trí hình các con rồng chạy dọc hết phần thân bài vị. Bài vị để trên long ngai, hai tay ngai được trang trí bằng những hình rồng.
Kiệu long đình có chiều dài là 3,50m đòn kiệu được trạm khắc hình rồng vân mây. Trên thân kiệu đặt long đình, long đình cao 1,80m được trang trí hoa văn hình hoa cúc cách điệu, rồng vân mây bốn góc long đình được trạm khác bốn đầu rồng, trên cùng được tạo tác hình búp sen.
Kiệu bát cống: Đòn kiệu giống như kiểu long đình. Trên thân kiệu bát cống được chia làm 3 phần, phần đáy thân kiệu và phần trên cùng được chia làm các khuông to, nhỏ khác nhau, mỗi khuông được trang trí hình rồng hai bên được trang trí hình hai đầu rồng, tráng kiệu được trang trí trạm khắc hình mặt nguyệt rồng trong vân mây. Tất cả trang trí trạm khắc từ đòn kiệu, thân đều được trạm khác hình rồng uốn lượn.
Rùa đá: Hiện trạng rùa bị gẫy đầu, có kích thước chiều dài 1,50m, ngang thân rùa 1,10m, trên thân rùa có lỗ đặt bia nhưng hiện tại không còn bia. Trên thân hình rùa không có hoa văn gì.
Một số đạo sắc tiêu biểu
Đạo sắc: Cao Sơn Đô Bác (Vĩnh Thịnh 6) 1705
Đạo sắc: Cao Linh Cao Sơn (Minh mệnh 5) 1824
Đạo sắc: Cao Sơn (Thiệu Trị 4) 1841
Đạo sắc: Cao Sơn (Tự Đức 5) 1852