Tên di sản : Đình làng Yên Tôn Hạ
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 3332/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đình làng Yên Tôn Hạ là ngôi đình cổ được xây dựng từ triều Nguyễn Đình được dựng theo hướng Nam, toạ lạc trên một khu đất rộng, thoáng giữa khu vực cư trú của dân làng. Kiến trúc của ngôi đình nằm trong một khuôn viên khép kín bởi hệ thống tường rào bao quanh.
Quy mô cấu trúc:
Toàn bộ không gian đình hiện tại được phân bố bao gồm: Sân, nhà tiền đường nằm trên một mặt bằng, đất đai đã được khoanh vùng bảo vệ (thuộc ô thửa số 499 với diện tích 614m2, theo bản đồ địa chính xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc ký duyệt năm 2001, tờ Số 10) (trước kia mặt bằng diện tích rộng 956m2), đình gồm một nhà tiền đường (hiện vẫn còn), một hậu cung nhưng hiện tại nhà hậu cung bị phá và hợp tác xã đã chuyển dịch diện tích 342m2 cho một hộ dân cư ở).
Phía bắc giáp thửa 455
Phía nam giáp đường liên xã.
Phía tây giáp đường làng.
Phía đông giáp thửa 500 và 501
Sân đình: Có chiều rộng 18,7m, chiều dài 23,5m, nền được lát gạch bát, xung quanh xây tường rào, liền kề với sân là hệ thống đường liên xã.
Nhà tiền đường: Trước kia không gian của đình được bố trí theo kiểu chữ đinh gồm một nhà tiền đường, và hậu cung nhưng hiện tại hậu cung đã bị phá. Tiền đường được đặt theo hướng Nam, nền cao hơn mặt sân 20cm, xung quanh bó nền vỉa gạch bằng đá lan giai.
Nhà tiền đường được cấu tạo 5 gian, hai dĩ, chiều dài 18,7m, chiều rộng 7,7m, tổng diện tích 144m2. Kết cấu kích thước các gian tính từ đông sang tây, như sau:
Dây đầu hồi tường đốc đông: 0,80m.
Gian thứ nhất rộng: 2,45m.
Gian thứ hai rộng: 2,45m.
Gian thứ ba (gian giữa): 3,50m.
Gian thứ tư rộng: 2,45m.
Gian thứ năm rộng: 2,45m.
Dẫy đầu hồi tường đốc tây: 0,80m.
Đình gồm 5 hàng cột, hai hàng cột cái, hai hàng cột quân trước sau, một hàng cột hiên trước.
Từ giọt mái hiên trước đến cột hiêu 0,45m
Từ tim cột hiên trước đến tim cột qua trước: 1,40m
Từ tim cột quân trước đến tim cột cái trước: 1,30m
Từ tim cột cái đến tim một cái: 2,80m
Từ tim cột cái sau đến tim cột quân sau: 1,30m
Từ tim cột quân sau đến tường hậu: 0,90m
Cột cái có chiều cao là 4,52m, đường kính cột là 0,42m
Cột quân có chiều cao là 3,69m, đường kính 0,39m
Cột hiên đá cao: 2,1m, vuông 0,20 x 0,20, chân tảng đá xanh cao 0,17cm, rộng 0,17m
Kích thước chân tảng cột cái: 0,48m x 0,48m
Kích thước chân tảng cột quân: 0,41m x 0,41m
Như vậy ngôi đình có tổng số 24 cột gỗ đứng trên hệ thống chân tảng gồm 12 cột cái, 12 cột quân và 6 cột hiên đá xanh.
Các cột trong ngôi đình này có tỷ lệ đường kính tương ứng với hình dáng của cột cũng có quy định rõ ràng. Các cột ở đây được tạc theo kiểu “thượng thu, hạ thách”, các xà, câu đầu có sự tương ứng với nhau. Sự tương ứng giữa xà với cột, giữa câu đầu với cột hợp lý và hài hoà.
Kết cấu vì kèo:
Đình gồm 5 gian, 6 vì có kết cấu kiến trúc tương đối cân đối, đối xứng nhau: gian đầu đối xứng với gian cuối, vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng với vì 5, vì 3 đối xứng với vì 2. Từ vì 1 đến vì 6 có kết cấu kiến trúc giống nhau, theo hệ thống giá chiêng, chồng rường kẻ hiên trước, bẩy sau có nghĩa là từ quá giang đến thượng lương đình được kết cấu kiểu con so chồng rường kẻ chuyền, trên cùng là các con rường chồng lên nhau nhưng tỷ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái, nó được đỡ bằng những đấu trụ vuông vắn. Đầu con rường thứ nhất trên vì nóc được ăn mộng vào đầu cột cái, đầu con trường thứ hai được ăn mộng vào đầu trụ đứng (trụ quang đèn) để nối hai trụ đứng này là một con rường dài nằm ngang ăn mộng vào đứng đỡ hoành tải của cả hai mái trước, sau (còn có tên gọi là rường bụng lợn). Đặc biệt trên rường bụng lợn ở những vì kèo này được nghệ nhân trang trí đầu rồng, miệng khắc chữ thọ, tất cả chạm mảng điêu khắc gỗ trông chắc chắn, khoẻ mạnh đỡ guốc thượng lương.
Như vậy các con rường ngoài chức năng đỡ hoành tải là yếu tố chính trong kết cấu để tạo nên vì kèo của ngôi đình. Trên các con rường này được các nghệ nhân thời bấy giờ tạo tác hoa văn trang trí hoa cúc cách điệu, chạm khắc chữ thọ trông rất mềm mại, uyển chuyển.
Phần dưới xà lòng, xà nách, nối giữa cột cái và cột quân, được kết cấu kiểu kẻ chuyền. Từ cột quân sau ra tường hậu được kết cấu kiểu bẩy sau, tất cả được tạo nên kết cấu liên hoàn chặt chẽ.
Từ cột quân ra mái ngói hiên phía trước, sau được đặt kẻ hoành, được lòng qua lá dong đặt trên kẻ hiên và bẩy sau. Kẻ hiên này được đặt phía trước và hạ qua lòng cột quân trước, đầu nghé này có nhiệm vụ đỡ con ngang nối giữ đầu cột quân và xà hạ ra cột hiên trước làm chắc chắn cho kẻ đỡ phần mái hiên trước. Mái sau không có hàng cột hiên nên hàng bẩy sau được đặt trên bức tường hậu làm chỗ đứng vững vàng, cùng bức tư���ng hậu đỡ toàn bộ lực mái sau. Toàn bộ rui mè, hoành tải đều được làm bằng gỗ tứ thiết, xà thượng, xà hạ, xà thế hoành đều được làm bằng gỗ có hình dáng vuông vắn được soi gờ chỉ. Bộ mái lợp ngói mũi hài với nhiều loại khác nhau, chứng tỏ ngôi đình đã được tu sửa nhiều lần.
Nghệ thuật chạm khắc tập trung ở 6 bộ vì, xà lòng, xà nách, kẻ bẩy, kẻ chuyền - là những phần kiến trúc quan trọng nhất của công trình, do vị trí phô diễn và tác dụng chịu lực (lực nén trọng lượng của mái, lực giằng để liên kết các bộ phận khung nhà).
Đình làng là chốn linh thiêng, thờ vị thần bảo hộ cho dân làng, vì vậy các đề tài trang trí truyền thống thể hiện tinh thần đó là Long, Ly, Quy, Phượng, được sử dụng vào chạm khắc trang trí, chiếm vị trí chủ đạo trong công trình. 6 bộ vì chạm đề tài lá lật, cánh sen, tập trung ở phần đầu của quá giang (vị trí tiếp giáp với đầu cột cái), ở đầu các con rường (vị trí tiếp giáp với phần mái) các đấu kê được chạm thành hình bông sen - loài hoa biểu tượng cho sự tinh khiết nơi cửa thiền. Trên xà hạ, ở vị trí gian giữa, phía trên bàn thờ- vị trí quan trọng nhất của ngôi đình được đặt bức đại tự nhưng đã bị bong chữ chỉ còn lại khung - Nội dung (Thánh cung vạn tuế), các chữ này được đặt từng ô và gắn chạm đôi rồng chầu mặt nguyệt bằng nghệ thuật chạm bong, nét đục sâu, tạo khối nổi với dáng vẻ uy nghiêm. Bên cạnh các mô típ tứ linh giữ vai trò chủ đạo bởi kích thước các bức chạm hầu như chiếm gần hết diện tích bề mặt kiến trúc, xen vào giữa hình tượng linh thiêng (Long, Ly, Quy, Phượng) là các con vật gần gũi với đời sống của cư dân nông nghiệp như: con cua, con cá. Tất cả được bố trí ở nơi thoáng mát, thể hiện tính hồn nhiên của người lao động và nói lên phong cách bố cục của nghệ nhân thời bấy giờ rất tinh tường.
Các chủ đề dân gian trở thành đề tài nghệ thuật chạm khắc các công trình kiến trúc (kể cả kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng), thể hiện tinh thần vươn tới tự do của cộng đồng cư dân nông nghiệp, trong chế độ phong kiến đã bộc lộ những lạc hậu, lỗi thời trước sự đòi hỏi tiến bộ của sự phát triển xã hội.
Tất cả những hoạ tiết trang trí ở vì kèo, kẻ hiên, kẻ bẩy, đại tự đều làm tăng thêm tính uyển chuyển mềm mại, thể hiện nghệ thuật trang trí mang phong cách kiến trúc nghệ thuật triều Nguyễn, mang nhiều màu sắc tôn giáo, hợp với đời sống dân gian thể hiện cuộc sống no đủ của con người lúc bấy giờ.
Loại di tích:
Đình Yên Tôn Hạ là một di tích có giá trị cả về quy mô kiến trúc cũng như nghệ thuật trang trí. Do vậy đình thuộc loại di tích kiến trúc nghệ thuật.
Các hiện vật trong di tích:
Hương án gỗ (mới): 01 cái
Bát hương gốm (mới): 02 cái
Mâm bồng gỗ (mới): 02 cái
Hạc gỗ (mới): 02 con
Đài rượu (mới): 04 cái
Cây đèn gỗ (mới): 02 cái
Cây nến gỗ (mới): 02 cây