Tên di sản : Đình làng Trọng Hậu
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 345/QĐ - UBND
Giới thiệu
Kiến trúc của di tích:
Cấu trúc của đình gồm: Cổng đình, Sân đình, Bình phong và Đình chính.
Cổng đình: Là một công trình mới được xây dựng theo kiểu cổng Tam quan chùa, có kích thước chiều dài 5,16m, dày 0,60m, cao 2,9m; được mở ba cửa ra vào, cửa giữa rộng 2,8m, cao 2,9m, hai cửa bên có kích thước bằng nhau rộng 1,18m, cao 2,35m. Phía trên phần mái đổ bê tông, xây vuông vức, chất liệu bằng gạch, vôi vữa.
Bức bình phong: Có chiều rộng 4,9m, chiều cao 2,25m, được tạo tác eo hình cuốn thư. Trên bề mặt của bức bình phong để trơn không có trang trí.
Sân đình: nằm trước mặt chính của đình, có diện tích chiều dài 15,1m, chiều rộng 19,2m, nền sân được láng bằng xi măng, xung quanh được xây tường bao.
Đình Chính:
Về cấu trúc: Đình được cấu trúc hình chữ Nhất (-), kết cấu theo chiều dọc, cửa mở về phía tường hồi (vì), có kích thước chiều dài 14,7m, chiều rộng 8,65m, hiên rộng 2,5m, gồm 5 gian, 2 chái, 6 vì kèo gỗ, với 4 hàng chân cột (10 cột cái và 10 cột quân); chu vi cột cái 1,10m, chiều cao 4,05m, chân tảng vuông 0,38m, cột quân có chu vi 0,95m, chiều cao 3,1m, chân tảng vuông 0,38m. Chiều cao từ Thượng lương xuống nền nhà là 4,9m. Bộ mái của đình được cấu trúc 2 mái, cấu trúc đối xứng qua đỉnh mái, đều được lợp ngói liệt và ngói vẩy. Hoành tải rui mè bằng gỗ, nền nhà lát gạch bát màu đỏ. Ở phía ngoài, mặt trước (mặt chính - cửa ra vào) xây chắn mái, phía trên trang trí hình lưỡng long chầu mặt nguyệt. Hai bên tường đốc mở các cửa sổ hai bên.
Kích thước bước gian tính theo chiều ngang: Gian 1 rộng: 3,2m; gian thứ rộng: 2,8m, gian thứ 3 rộng: 2,9m; gian thứ 4 rộng 2,8m, gian thứ 5 rộng 7m; hai chái mỗi bên rộng: 0,60m.
Kích thước tính theo chiều dọc: Từ tường đến cột quân: 0,7m, từ cột quân đến cột cái: 1,45m; từ cột cái đến cột cái: 2,5m; từ cột cái đến cột quân: 1,45m; từ cột quân đến tường: 0,75m.
Về kết cấu kiến trúc vì kèo:
Vì 1, vì 2, vì 3, vì 4, vì 6, cơ bản giống nhau về kiểu liên kết: đó là hệ thống kết cấu theo kiểu “Giá chiêng, kẻ chuyền”. Ở mỗi bộ vì kèo này được bắt đầu là hệ thống cột cái được bổ mộng ở đầu để quá giang ăn mộng vào (mộng ở đây là mộng én). Phía trên quá giang là hệ thống kẻ chuyền (kẻ ngồi) ăn mộng vào ấu trụ ở hai bên; đấu trụ được đứng trên lưng quá giang trên một đấu bát. Để đối đấu trụ là một con rường dài nằm ngang làm nhiệm vụ liên kết. Phía trên rường này là 2 con rường ngang liên tiếp chồng lên nhau và trên cùng là guốc đỡ Thượng lương.
Ở phía dưới (tính từ quá giang trở xuống) là hệ thống kẻ chuyền ăn mộng vào đầu cột lớn, mõm kẻ đỡ quá giang, đuôi kẻ ăn mộng vào xà đùi (xà đùi được bổ mộng ăn vào thân cột cái, đầu xà ăn mộng vào đầu cột quân), điểm tiếp giáp là cột quân, xà đùi, kẻ bẩy. Tại đầu cột quân là một kẻ bẩy, chạy xuống mõm kẻ đỡ xà đùi ăn mộng vào đầu cột quân, đuôi kẻ gác đầu lên tường đốc hai bền (trước đây điểm kẻ bẩy gác đầu là một cột gạch xây vuông).
Vì kèo thứ 5: Kết cấu theo kiểu “Chồng rường, giá chiêng” gồm 4 hàng chân cột: Từ phần quá giang trở lên là các con rường được ăn mộng vào đầu các đấu vuông thót đáy: gồm quá giang, đấu trụ, câu đầu, rường ngang, rường dọc đỡ Thượng lương. Phía dưới Quá giang là hệ thống các con rường được kết cấu theo độ dốc của mái...nó được đỡ bằng một trụ đứng và các đấu vuông thót y đứng trên xà đùi. Đầu con rường thứ nhất (tính từ quá giang) nằm trên cột lớn; đầu con rường thứ hai được ăn mộng vào trụ đứng. Hai trụ đứng này được nằm trên quá giang, tạo thành như một giá chiêng. Để giữ cho chân trụ này đứng vững, ngoài việc chân trụ ăn mộng vào đấu bát nằm trên quá giang thì đấu trụ cũng được đục mộng để cho con rường lớn (rường bụng lợn) ăn mộng vào. Trên con rường bụng lợn này là một con rường nằm ngang nhưng ngắn hơn làm nhiệm vụ đỡ con rường nằm dọc đỡ thượng lương - điểm cuối cùng của cấu tạo vì kèo. Vì là cấu trúc dọc, gian cuối cùng là nơi đặt bàn thờ, nên riêng vì kèo này có đặc điểm khác các vì kèo khác trong đình.
Cửa đình: được mở cửa về phía trước theo chiều dọc của đình gồm 3 cửa. Cửa giữa có kích thước chiều rộng 1,59m, chiều cao 2,15m; hai cửa bên bằng nhau chiều rộng 0,80m, chiều cao 1,95m, cánh cửa làm bằng gỗ theo kiểu thượng song hạ bản, phía trên cửa ở giữa viết chữ Hán có nội dung “Vạn thọ vô cương”, hai cửa bên viết chữ “Phúc - Đức”.
Hai cột nanh ở phía trước có kích thước chiều cao 5,1m, cột vuông 0,85m, cột xây bê tông, cόt thép, trên đỉnh cột gắn tượng nghê chầu.
Về nghệ thuật trang trí: Trong kiến trúc đình làng, ngoài bản thân kiến trúc (hình khối) thì nghệ thuật trang trí (điêu khắc) giữ vai trò chủ đạo và quan trọng, góp phần nâng giá trị thẩm mỹ của công trình lên một tầm cao hơn.
Ở đình làng Trọng Hậu, hình khối kiến trúc của bộ khung gỗ và sự trang trí đường nét (gờ chỉ), nổi, chìm trên các cấu kiện kiến trúc như quá giang, câu đầu, kẻ chuyền, kẻ bẩy, xà, đã làm cho nội thất của công trình trở nên mềm mại và uyển chuyển. Các đề tài cũng được thể hiện và trang trí trên những bộ phận khác nhau của kiến trúc, đã làm cho công trình hoàn chỉnh hơn.
Đó là hình tượng lá cúc cách điệu chạm nổi trên hệ thống các con rường ở vì thứ 5. Lá cúc ở đây được chạm hình to bản, có đủ sống lá, gân lá, mép lá hình băng cưa gần giống với lá cây dương xỉ. Loài hoa cúc biểu hiện cho bản chất thanh tao, kín đáo và lâu tàn đã thích hợp và ảnh hưởng mạnh tới đạo thiền bình dị, gần gũi thiên nhiên và được sử dụng như một biểu tượng cao quý.
Ở vì thứ 5 trên các con rường, đấu bát trang trí hình lá cúc, hình cánh sen, bức cốn trang trí hình long hóa, chữ Thọ, hoa lá trong vân mây.
Nhìn chung, kiến trúc và điêu khắc đình làng Trọng Hậu đã thể hiện tư tưởng và quan niệm về vũ trụ trong đời sống của họ. Các bức chạm tinh tế, giàu chất suy tưởng cho thấy đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật quan trọng của cư dân Thanh Hóa cần phải được tìm hiểu, nghiên cứu trên nhiều phương diện.
Bài trí đồ thờ:
Bài trí đồ thờ ở Đình làng Trọng Hậu khác với các ngôi đình khác. Ở đây oan thờ được đặt ở gian cuối tính từ cửa vào. Bệ thờ trong cùng được xây bằng xi măng gồm 3 cấp. Bệ thứ nhất có kích thước chiều dài 1,7m, chiều rộng 5,51m; chiều cao 1,52m. Bệ thứ hai từ dưới lên có kích thước chiều dài 1,7m; chiều rộng 1,12m; chiều cao 1,17m. Bệ thứ ba (trong cùng) có kích thước chiều dài 1,7m, chiều rộng 1,0m; chiều cao 1,69m. Trên bệ thờ đặt các hiện vật như: gai thờ, bài vị, khay mịch, bát hương, đài nước,...và một số đồ thờ khác.
Gian thứ 2 (từ trong ra), ở chính giữa đặt một hương án gỗ, có kích thước, chiều cao 1,33m, chiều dài 1,85m, chiều rộng 0,88m, trên hương án đặt các hiện vật như: bát hương, khay mịch, lư hương, hạc, chân nến,...và một số đồ thờ khác.