Tên di sản : Đình làng Thanh Dương

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 4109/QĐ - UBND

Giới thiệu

Đình Thanh Dương nằm ở trung tâm làng quay mặt về hướng tây nam trên một thế đất rồng chầu hổ phục, tam thủy giao long. Nước ở 3 hướng:

Đông chảy lên, Tây chảy xuống, Nam chảy lại (Ngã Ba Đầu) với ý nghĩa Thành Hoàng ngự giữa lòng thôn xã, đã tạo nên một cảnh quan tự thủy cùng với những làng xóm trồng lúa nước bao quanh.

Xét về mặt địa lý hành chính thì làng Thanh Dương xưa phía Đông giáp cánh đồng Giàng trồng lúa nước lâu đời và xã Đông Cương, phía Tây nhìn ra cánh đồng trước nghè và xã Thiệu Vân, phía Bắc là đê sông Mã và bên kia là làng đầu xã Hoằng Giang thuộc huyện Hoằng Hóa. Cả làng được chia thành những xóm nhỏ (4 xóm). Các xóm này đều giúp những con đường lớn liên xã, liên thôn. Từ Nam đến Bắc, từ Đông đến Tây đều thông với đường tỉnh lộ qua xã, và con đường thủy thông thương các vùng đất khác đã tạo nên các thế mạnh về kinh tế, văn hóa đối với chiều dài của lịch sử vùng đất. Với vị trí ấy, có thể thấy địa điểm xây dựng ngôi đình ở làng Thanh Dương chẳng những có vị trí giao thông thuận lợi mà còn là nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ.

Về quy mô cấu trúc:

Không gian mặt bằng của đình trước đây được bố cục theo kiểu chữ đinh (J) phía trước ở hai bên tiền đường (còn gọi là tiền tế) có nhà tả vu và hữu vu. Phía ngoài sân là cổng đình được xây 4 trụ biểu.

Nhưng do nhiều lý do, phần hậu cung đã bị phá hủy, hai nhà tả vu và hữu vu bị đổ nát, cổng đình cũng không còn nữa. Nhưng dù sao thì những phần còn lại đến hôm nay nhất là ngôi tiền đường với nhiều mảng chạm khắc tinh xảo, nhiều đề tài phong phú và đa dạng vẫn là hết sức có giá trị. Người dân Thanh Dương từ xưa đến nay rất lấy làm tự hào bởi ngôi đình làng mình có vị thế cảnh quan “Tam thủy giao long”.

Đình hiện nay có kết cấu mặt bằng chữ nhất (-) với tiền đường rộng 3 gian và 2 chái xép có chiều dài 13m, chiều rộng 7,35m. Các bước gian được bố trí: 2 gian phải rộng 2,85m, hai gian hồi rộng 1,6m, gian giữa rộng 3m. Đình có tất cả 12 cột lớn (có đường kính 110cm) và 12 cột quân (đường kính 100cm) đã tạo nên một tỷ lệ hợp lý làm cho ngôi đình bên trong ấm áp, bên ngoài uyển chuyển.

Về bố cục kết cấu kiến trúc được tạo thành 3 phần chính gồm: 2 vì kèo gian giữa, 2 vì kèo bên và 2 vì kèo vỉ.

Kết cấu 2 vì kèo gian bên (2 vì) giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết chủ yếu là theo kiểu chồng rường kẻ bẩy. Ở một bộ vì được bắt đầu bằng 2 cột cái bổ mộng để cho câu đầu chui vào (ở đây câu đầu làm nhiệm vụ như một quá giang) phía trên lưng câu đầu là hai trụ tròn được đứng trên một đấu vuông. Từ thân của những trụ tròn này là những con rường ngang cụt được ăn mộng vào trụ tròn nằm trên những đấu vuông có nhiệm vụ đỡ các hoành tải (2 con rường) ở cả mái trước và mái sau. Để nối 2 trụ tròn là 1 con rường dài nằm trên đầu 2 đấu trụ tròn (làm nhiệm vụ như một câu đầu) vừa làm chức năng đỡ các hoành tải ở cả mái trước và mái sau vừa làm nhiệm vụ nối trụ tròn. Ở trên con rường dài này là một con rường bụng lợn (úp xuống) cũng để đỡ các hoành tải. Phía trên là một đấu trụ tròn nằm giữa đỡ một đấu vuông nằm theo chiều dọc ngôi nhà để đỡ thượng lương.

Từ dưới câu đầu trở xuống là một hệ thống kẻ chuyền và kẻ bẩy. Kẻ chuyền này được ăn mộng vào đầu cột lớn đỡ câu đầu. Đuôi kẻ vươn ra nằm trên xà đùi và ăn mộng vào xà đùi. Xà đùi được ăn mộng vào cột lớn chạy ra ăn mộng vào đầu cột con. Để đỡ xà đùi này là một kẻ bẩy chạy ra gác đầu trên tường ở mái sau và cột gạch ở mái trước những cột gạch này trước đây vốn là cột hiên nhưng nay đã bị thay thế bằng tường).

Trên lưng kẻ chuyền và bụng kẻ bấy là các lá dong được đục những lỗ vuông để cho các hoành tải chạy qua làm nhiệm vụ đỡ mái.

Về hai vì kèo gian giữa: Cơ bản kiểu liên kết giống hai vì kèo bên, chúng chỉ khác nhau ở chỗ hệ thống kẻ chuyền từ đầu cột cái xuống đầu cột quân được gắn thêm các bức cốn mê vừa làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải vừa là một phiến đoạn để phục vụ cho mục đích trang trí trong kiến trúc theo dụng ý của tác giả công trình.

Kiến trúc của hai vì kèo hồi: Được cấu trúc gồm các hệ thống: Câu đầu nối với hai đầu cột lớn, xà lòng nối hai đầu cột quân ăn mộng vào cột lớn. Hệ thống kẻ bẩy mái trước và mái sau ăn mộng vào cột quân, mỗi kẻ và nghé kẻ bẩy nằm dưới xà lòng. Để đỡ các hoành tải (theo thứ tự từ dưới lên) gồm lá dong nằm trên đầu kẻ bẩy, từ tường đốc lên đầu cột con, hệ thống các con rường từ đầu cột con đến đầu cột lớn và phía trên câu đầu là một ván dây vì ruồi theo góc mái, được mặt hổ phù ngậm chữ Thọ làm nhiệm vụ đỡ mái từ câu đầu đến thượng lương.

Tóm lại, bộ khung gỗ của đình Thanh Dương được làm bởi các hệ thống cột lớn, cột quân, kẻ chuyền, kẻ bẩy, ván mê, tạo nên một kết cấu để giằng bộ khung một cách chắc chắn. Ở đây kết cấu kiến trúc được tuân theo một qui luật đăng đối giữa các vì với nhau (hai vì kèo giữa hai bên, hai vì kèo giữa, hai vì kèo hồi đã tạo nên sự liên kết của toàn bộ công trình.

Về nghệ thuật trang trí: Ngoài kết cấu kiến trúc thì nghệ thuật trang trí và điêu khắc là những yếu tố gắn bó khăng khít, không thể thiếu, đưa ngôi đình Thanh Dương lên tầm giá trị nghệ thuật cao, có bản sắc dân tộc và tính thời đại rõ rệt. Ngoài tạo hình bản thân kiến trúc, bố cục tổng thể, hình khối không gian kiến trúc, xử lý đường nét và góc cạnh ở đình Thanh Dương, người thợ chạm khắc còn sử dụng các bức chạm khắc trên các vị ruồi, kẻ bẩy, cốn mê và các con rường bằng một lối chạm nổi cao đã làm tăng giá trị nghệ thuật để phục vụ nội dung, tính chất tư tưởng của công trình.

Trên bức vì ruồi lớn được chạm hình hổ phù với dáng điệu: trán dô, mắt lồi, mũi dô. Hai bên mặt hổ phù là hình lên chầu. Dưới cằm hổ phù là bộ đồ trà (gồm 3 chén và 1 ấm). Kẻ bẩy ở phía trước (hiên đình được chạm khắc hình chim phượng đang vờn nhau. Kẻ sau được chạm hình lá cúc cách điệu.

Đề tài trang trí là hình lá cúc cách điệu trên các con rường. Kẻ bẩy hiên trước chạm hình cây mai hoá rồng, kẻ bẩy sau chạm 1 lá cúc lớn chạy suốt thân kẻ.

Ngoài những bức chạm khắc ở các vì được phản ánh những đề tài khác nhau, còn toàn bộ các con rường trên các vì đều chạm khắc hình lá cúc cách điệu,... Tất cả những bức chạm khắc hình rồng, chim phượng, cây cỏ, hoa lá, chim muông đã mang lại cho nội thất công trình một dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển giàu chất suy tưởng.

Đề tài hình các con chim phượng, rồng, cá chép, ngựa, rùa,... trong những bức chạm này đều phản ánh tư duy, triết lý về đời sống nhân sinh của con người trong vũ trụ bao la.

Với những mảng chạm khắc nêu trên, đình Thanh Dương được xem là một trong những ngôi đình đẹp, ở đó các mảng chạm khắc trên các phiến đoạn đã phản ánh tư duy triết lý cuộc sống mang chất dân gian sâu lắng của người nghệ sĩ ngày xưa.

Hiện vật trong di tích:

Ngai thờ và bài vị (mới)

Đại tự (mới)

Câu đối (mới)

Bộ tam sơn (cổ)

Bát hương sứ: 5 cái (mới)

Chân đèn gỗ: 2 cái (mới)

Đài nước gỗ: 2 cái (mới)

Chậu đá: 1 cái (cổ)

Ngoài ra, di tích còn lưu giữ được một tập văn cúng có giá trị.

Hình ảnh Đình làng Thanh Dương

Đình làng Thanh Dương

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật