Tên di sản : Đình làng Quảng Xá

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 2620/QĐ-UBND

Giới thiệu

Đình Quảng Xá là công trình kiến trúc công cộng của làng. Kiến trúc được dựng nên để làm nơi làm việc của chức sắc, nơi bàn việc làng, giải quyết các công việc, tiếp đón những làng chà như: Tạnh Xá, Kiều Đại...và tổ chức lễ hội làng. Việc thờ Thành Hoàng làng được thờ ở Nghè làng, đình Quảng Xá chỉ mang công năng như Hội quán, dịch đình.

Căn cứ vào hàng chữ thượng lương (Hoàng triều Tự Đức nhị thập niên tu��� thứ Đinh Mão, mạnh hạ nguyệt, cốc nhật thụ trụ thượng lương đại cát) được dựng năm Tự Đức thứ 20 (1867), Đình Quảng Xá là một ngôi đình còn giữ được nguyên vẹn một kiến trúc thời Nguyễn bằng gỗ lim.

Toạ lạc bề thế trên vị trí cao ráo, đình có 5 gian, 2 hồi bít đốc, 2 đầu đình có 2 cột nanh trên đắp hình búp liên hoa, cho ta thấy vị trí của đình được chọn theo yêu cầu phong thuỷ: “nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền” là một kết quả lao động trí tuệ của nhà kiến trúc kiêm thầy địa lý khi chọn long mạch, địa điểm dựng đình Quảng Xá.

Cái đẹp nổi lên của công trình kiến trúc này là địa hình và phong cảnh xung quanh là sự đồng hành không bao giờ tách rời nhau đối với kiến trúc, từ đó toát ra đặc điểm truyền thống trong kiến trúc cổ là sự hài hoà với địa hình và phong cảnh thiên nhiên trong đó ẩn náu yếu tố phong thuỷ. Phong thuỷ ở đây có thể bao gồm cả không gian rộng lớn gồm cả núi sông vùng lãnh thổ. 

Ngôi đình với kiểu nhà có số gian lẻ (5 gian) được bố trí tại địa điểm hài hoà trong tổ chức làng xóm, với những cảnh núi như núi Long, núi Ngọc Nữ, núi Kỳ Lân ở phía Tây Nam đến con sông Nhà Lê chảy phía trước, tạo sự hoà nhập với thiên nhiên là nét đặc sắc của truyền thống kiến trúc cổ truyền Việt Nam.

Đình Quảng Xá là một công trình kiến trúc huy động nhiều công sức, của cải của dân làng. Sự ganh đua của học trong làng đã thúc đẩy việc tìm kiếm vật liệu, thợ mộc và đặc biệt là kiểu dáng ngôi đình để ngôi đình có phong cách khá độc đáo về mặt công năng khi so sánh với ngôi đình khác. Đình Quảng Xá là trụ sở làm việc của hội đồng chức sắc, nơi họp làng, tổ chức lễ hội, nơi đón tiếp các làng kết chạ và tiếp quan viên khi đi công cán qua địa phương, vì vậy, kiến trúc của đình ngoài yếu tố truyền thống nó còn mang phong cách của đình, Hội quán.

Đình được cấu trúc theo kiểu chữ Đinh hay còn gọi là hình chuôi vồ, gồm đình và hậu cung. Hậu cung được xây nhỏ đặt 1 ban thờ để thờ vọng thành hoàng làng và cúng giỗ những sinh linh tha phương.

Đình Quảng Xá dài 13,5m; rộng 4,6m; có hè rộng 1,2m gồm 5 gian 6 vì 2 hôi bít đốc. Đình có tổng 22 cột lim, mỗi cột có đường kính 0,26m, các cột con cao 2,3m tính từ trên chân tảng đến bụng quá giang, được kê trên chân tảng quả bóng cao 0,65m. Đình được kết cấu bằng 6 vì, có 2 vì gian giữa trốn cột cái để có không gian rộng so với các gian liền kề. Gian giữa rộng 2,5m, các gian khác rộng 2,2m.

Phần hậu cung được xây bằng gạch rộng 1,5m, dài 2,5m được nối với gian giữa.

Đình Quảng Xá với kiến trúc gỗ hình thành một bộ khung hình hộp không chỉ là một đặc điểm chung của kiến trúc cổ truyền, ở đây bộ khung gỗ với nhiều kiểu vì kèo khác nhau để lộ ra phía trước hàng hiên thoáng được đỡ mái bằng hệ thống kẻ bẩy, được gắn chặt vào đầu cột theo ba chiều không gian, kẻ bẩy vươn qua không gian hiên ăn mộng vào đầu cột con để cho tăng cường thêm phần chắc chắn ở điểm nối giữa xà nách và cột con. Xà hiện ở đầu tầu mái hiên cùng với xà đại ở đầu cột con liên kết chặt chẽ hai vì kèo của 1 gian. Điểm thu nối các chân cột con với nhau bằng hệ thống ngạch, ngưỡng cửa cũng làm chức năng liên kết như các xà và làm nên một bộ khung gỗ hình hộp vững chãi, hoàn chỉnh.

Số lượng khoảng chảy tức là số lượng hoành đã chọn theo yêu cầu tập quán: hoành được xếp theo thứ tự: “Sinh, lão, bệnh, tử”, trong đó hoành nóc (thượng lượng) chiếm vị trí chữ “sinh” và hoành ở đầu tàu mái cũng vậy. Trật tự “sinh lão bệnh tử” này cũng chi phối số lượng rui đỡ ngói đảm bảo cho từng gian đình, hoặc tất cả các gian có số rui lẻ như 9, 13.

Trong tập quán và quan niệm đẹp truyền thống - nóc đình làm phải có “déo” nghĩa là 2 đầu cao lên so với gian giữa tạo ra đường cong của mái. Cho nên các hàng cột xa gian giữa thì càng cao, mỗi hàng chênh nhau vài phân đến cả tấc. Người thợ cả “nẩy mực” cho các bộ phận của vì kèo đổ mái đình có “déo” khi cắt các cột. Nhưng do yêu cầu tu bổ, năm 2001 địa phương bằng cách điều chỉnh độ cao chân tảng để mái đình không cong như hiện nay để mái được lớp bằng ngói tây. Tuy vậy lớp ngói trên mái để xuống sườn nhà vừa liên kết chặt chẽ cùng hệ thống bờ bao gắn kết với 2 trụ biểu vuông tạo thành một khối bền vững. Trụ biểu được xây vuông kẻ chỉ, trên đỉnh được đắp nổi búp liên hoa, trụ được liên kết với tường đốc nối với bát đấu trên đỉnh nóc bằng một hệ thống bờ nóc vững chãi.

Quy định mực thước ở đình Quảng Xá được lấy từ đầu cột và không lấy ở chân cột vì đầu cột là nơi khớp các mộng cột, xà, kẻ theo 3 chiều không gian. Tổng số cột của đình là 22 cột, mỗi cột được “thách” 2 phân chính từ 1/3 chân cột, có nghĩa là một phần ba thân cột được đẽo nhỏ phần còn lại và nguýt cong trước khi tỳ lên chân tảng. Trong hệ thống cột của vì kèo, các cột đều choãi ra theo cách gọi “thượng thu hạ thách: Dùng “rui mực”, “thước vuông” để xác định các khoảng hầu như được thống nhất trong các tập đoàn thợ mộc. Đây là mực thước bắt buộc cũng là kinh nghiệm đảm bảo tư thế vững chắc cho kết cấu chính của bộ khung gỗ gồm các vì kèo trên hệ thống cột của đình Quảng Xá.

Khí hậu vùng đồng bằng Thanh Hoá nằm trong nhiệt đới gió mùa ẩm và bắt đầu có tính chất hải dương, có sự xâm nhập của bão và dải hội tụ nhiệt đới. Mặt khác, gió mùa Tây Nam trở nên khô hơn là nguyên nhân tạo nên khô nóng ở mùa xuân hạ. Trong điều kiện ảnh hưởng của gió mùa Đông bắc và khả năng giữ ẩm không lớn của vùng đồng bằng cũng như chế độ mưa muộn đã quyết định nhịp điệu và đời sống có tác động cơ bản đến kiến trúc các công trình của con người thì yếu tố bền vững là một điều kiện kiên quyết khi chọn thiết kế các hạng mục trong đình Quảng Xá.

Để thích nghi với điều kiện khí hậu miền Trung, nhân dân địa phương đã t��o ra một kiểu kiến trúc vì độc đáo và bền vững, một bộ khung gỗ với 6 vì kèo cho 5 gian đình, thông qua 3 chuông cửa bức bàn khi đóng mở bởi một khung ngạch gỗ có then.

Đình Quảng Xá kết cấu có 6 vì kèo mang 3 cặp kiểu dáng kiến trúc khác nhau. 2 vì đầu hồi: kiểu chồng giường kẻ chuyền; 2 vì gian giữa (trốn cột) và 2 vì còn lại: kiểu thượng chồng giường hạ kẻ chuyển. Tất cả các vì đều có 1 điểm chung là kiểu vì kẻ chuyền. Kèo được đẽo tròn lượn cong ăn mộng suốt từ cột con qua đầu cột cái đến bụng giá chiêng, phía trên được kết hợp với phần lá dong đỡ các hoành, tạo được sự uyển chuyển, tránh được cảm giác nặng nề cho phần mái.

Hai vì kèo đầu hồi được cấu tạo bằng hệ thống giá chiêng chồng giường, các con giường được xếp chồng lên nhau và chạm khắc hình hoa lá; ở phần giữa giá chiêng được yểm ván khắc chữ Phúc Đức cho 2 vì hồi. Vì kèo ở đây được làm bằng gỗ lim, thượng lương được đỡ bằng một trụ đấu được chạm khắc cách điệu hình "lân hoá" tỳ lên 2 đầu giá chiêng thông qua 2 trụ tròn kết hợp với quá giang (hoặc cột cái) để chống đỡ phần mái.

Đầu quá giang của 2 vì giữa và đầu xà nách của các vì qua cột con đến suốt 2 mặt của kẻ bẩy đều được chạm bóng hình cúc dây. Đảm bảo một kết cấu vững chắc là hệ thống xà thế hoành, xà hạ và xà đại ở đầu cột con liên kết chặt chẽ giữa các vì. Ở 3 gian giữa, xà hạ và xà thế hoành còn được gắn bức xiên hoa bằng hệ thống con tiện để lấy ánh sáng và thoáng khí bên trong đình.

Phần giao nối giữa tàu mái sau được lợp ngói kéo dài với hậu cung được xử lý hoàn chỉnh, thiết chế thờ tự trong đình hợp lý với công năng của ngôi đình là trụ sở hành chính của làng, là nơi sinh hoạt cộng đồng cũng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng trong lễ hội. Không gian rộng rãi của gian chính nối liền với ban thờ trong hậu cung được sử dụng thuận tiện trong dịp khánh tiết, nơi đặt bát hương cùng nhiều vật dụng tế tự như chân nến, hộp quả, khay gỗ, học sứ...

Qua dòng chữ ghi trên thượng lương, đình Quảng Xá được dựng năm 1867 về cơ bản vẫn giữ nguyên thức kiến trúc cổ Việt Nam có nguồn gốc từ nền kiến trúc dân gian với kết cấu khung gỗ đã quen biết từ lâu đời. Song ở đây kiến trúc truyền thống đã có những thay đổi để phù hợp với nền sản xuất mới, cũng như đời sống mới là đã xuất hiện một kết cấu dáng bền vững với kỹ thuật lắp dựng chắc chắn và đơn giản mang theo phong cách kiến trúc Hội quán, dịch đình...mà chúng ta thường gặp ở các đô thị cổ thế kỷ XVIII - XIX.

Bởi vậy qua thời gian 140 năm ngôi đình vẫn nguyên vẹn, bảo tồn được cả về chất liệu, phong cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn.

Thống kê hiện vật:

Cột đá vuông: cạnh 0,1m gồm 2 mảnh dài 1,4m.

Chân tảng đá: cao 0,30m, rộng 0,30m.

Chân tảng để bồng đá: rộng 0,30m; cao 0,36m.

Chân lọng đá: đường kính 0,20m; dày 0,07m.

Bệ đá: rộng 0,57m; cao 0,64m; dài 0,78m.

Đế bia đá: cao 0,24m; dài 0,75m; rộng 0,49m.

Con giống đá: dài 0,36m; cao 0,46m; dày 0,13m.

2 bát hương gốm (cung tiến) cao 0,2m; đường kính 0,22m.

08 hộp quả gỗ (thế kỷ XIX).

01 khay gỗ (thế kỷ XIX) đường kính 0,40cm, cao 0,22m.

02 học sứ thờ (cung tiến) cao 0,52m.

01 ngai gỗ thờ (thế kỷ XIX) cao 0,52m; rộng 0,28m.

Hình ảnh Đình làng Quảng Xá

Xem tất cả
Đình làng Quảng Xá

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật