Tên di sản : Đình làng Quảng Thi

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 3332/QĐ –UBND

Giới thiệu

Đình Quảng Thi được xây dựng bên cạnh nghè Cao Sơn tôn Thần, đình nằm ở phía trước cùng hướng nên gọi là Đình - đền để thờ Thần Sao Sỉa, Cao Sơn cùng các công thần Lam Sơn: Lê Sao, Trần Lựu, công chúa Cẩm Vinh. Trải qua biến thiên lịch sử Đình - Đền cổ bị hư hỏng đến thời Nguyên niên hiệu Minh Mạng thứ 11 (1831) Đình được trùng tu lần thứ nhất, đến niên hiệu Tự Đức thứ 16 năm (1863) Đình được tiếp tục trùng tu còn tồn tại đến ngày nay.

Đình Quảng Thi toạ lạc hướng Tây Nam trên thửa đất số 317, có chiều dài 30m, chiều rộng 25m, diện tích hơn 740m2.

Khu vực I: (Khu vực bảo vệ bất khả xâm phạm) gần 470m2.

Phía Bắc giáp thửa đất 287T và đường liên xã.

Phía Nam giáp đường liên hương và thửa đất 346, 347.

Phía Đông giáp thửa đất số 318T, thửa 350 (chợ) và thửa 2874

Phía Tây giáp đường liên xã. (Theo bản đồ Xã Xuân Thiên, tờ số 12 đo vẽ chỉnh lý 9/7/2001).

Khu vực II: Gồm sân Đình, thuộc thửa đất 317, có chiều dài 30m, chiều rộng 25m, diện tích hơn 270m2. Là nơi giải trí và tổ chức lễ hội hàng năm.

Ngôi đình dài 22,5m; rộng 12,3m; diện tích xây dựng ngôi đình 276,8m2 gồm: 1 ngôi nhà 5 gian 2 chái (hai vẫy) theo kiểu 4 mái phân theo các gian (kể từ Tây qua Đông), gian thứ nhất rộng 3,3m; gian thứ 2 rộng 4,2m; gian thứ 3 (gian giữa) rộng: 4,55m; gian thứ 4 rộng 4,0m; gian thứ. năm rộng 3,0m; hai hồi mỗi bên rộng 1,7m.

Kết cấu cột theo chiều ngang.

Cột cái đến cột cái rộng 4,1m; cột cái đến cột quân trước rộng 1,98m; cột quân đến mép hè hiên trước rộng 1,55m; gia hè trước 0,55m; cột cái đến cột quân sau 1,98m; cột quân đuôi bẩy 1,55m; gia hiên sau 1,2m.

Đình là công trình kiến trúc nghệ thuật. Hình dáng công trình là một ngôi nhà 5 gian, 4 mái ngày xưa có các đầu đao uốn lượn như có thể đang bay trong không trung. Hiện nay chỉ còn kẻ xó (góc). Tiếc rằng cặp phượng rồng chầu ở mái không còn nguyên vẹn nhưng qua vết đắp cũng cho ta hình tượng cả không gian cao vút bay lượn trong không trung, phần mái cong uốn lượn 4 mái thể hiện đậm đà bản sắc dân tộc, 4 mái lợp ngói vẫy (mũi hài) như thể vươn mình chào đón 4 phương.

Kiến trúc bộ mái kèo chịu lực đầy dáng nghệ thuật. Hai vì gian hồi đối xứng nhau, trên nóc nam hai hổ phù, có vì kèo bắt quyết chéo xuống bốn góc như tạo thế đường bay. Ba gian giữa có kiến trúc bộ kéo chồng rường, giá chiêng, kẻ chuyền bẩy trước, sau. Ở kết cấu chịu lực bốn vì: vì 2, vì 3, vì 4, vì 5 có con ngang trước, sau. Vì 2 và vì 5 có xà lòng, vì 3 và vì 4 không có xà lòng.

Ngày xưa nhà có 4 cột gồm: 2 cột cái, 2 cột quân theo kiểu kẻ bẩy chuyền. Đến niên hiệu Tự Đức thứ 16 (năm 1863) đã cho gia cố tường hậu, xây ở đuôi kẻ trước cho công trình bền vững và tiện lợi sinh hoạt, xây tường hậu và hai hồi tạo cho công trình bền vững, phần gia thêm phía trước có con ngang kéo dài mái.

Đặc biệt toàn nhà là cột trơn. Hai bẩy giữa (sau đuôi kẻ bẩy) chạm trỗ hình long hoá. Hai đuôi bẩy kẻ trước chạm trổ hình phượng hàm (ngậm) thư.

Cột quần trước, sau cao 3,85m; chu vi 1,30m , đường kính 0,45m; tảng vuông 65 x 65m.

Cột cái cao 5,30m; chu vi 152cm; đường kính 0,50m, tảng vuông 0,7m x 0,7m; nóc cao gần 7m.

Bốn vì: vì 2, vì 3, vì 4, vì 5 (có con ngang trước sau). Xà dọc có tiết diện 0,38 x 4,5m xoi chỉ ống, sống dừa.

Xà: có hai hàng xà, mỗi cột gồm xà thượng, xà hạ đều vuông xoi chỉ ống sống dừa.

Xà cái gồm: xà thượng, xà hạ đều xoi cầu kỳ. Phía trên có xà hoành (mào hoành).

Xà con cũng có hai hàng, xà thượng, xà hạ lại có mào hoành - tàu mái trước sau.

Hoành gỗ tròn gồm 24 xà hoành mỗi gian.

Rui, mè bằng gỗ lim.

Ngói lợp hai lớp gồm: lớp ngói lót (chiếu) lớp trên ngói mũi (ngói vẩy).

Trong hệ thống xà, có xà hạ đại gian giữa chạm trổ hình tứ linh (long, ly, quy, phượng) chầu đối xứng, ở giữa có mặt nguyệt.

Hai câu đầu gian giữa (câu đầu 3, câu đầu 4) ở phần bụng chạm xoi kẻ chỉ cầu kỳ bên trong có kẻ hàng chữ Hán chữ nổi:

Phía Tây đề "Tu tạo Minh Mệnh thấp nhất niên (1831). Phía Đông (vì 4) đề "Trọng tu Tự Đức Thập lục niên" (năm 1863).

Tóm lại: Phần kiến trúc nghệ thuật Đình Quảng Thi tương đối nguyên vẹn về kết cấu, về nghệ thuật và phong cách. Đây là một điển hình về nghệ thuật chạm khắc gỗ triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX.

Thống kê hiện vật:

Hiện tại còn 3 long ngai giao ý, thần vị, 3 bát hương Thành Hoàng (nam); 3 long ngai giao ý, thần vị, 3 bát hương Thần Hoàng (nữ).

31 đạo sắc phong qua các triều.

(Có một thời di tích không được sử dụng vào việc thờ cúng nên đã đưa những đồ thờ này vào chùa Đầm và sắc phong thì đưa vào Văn phòng uỷ ban xã Xuân Thiên).

Hình ảnh Đình làng Quảng Thi

Đình làng Quảng Thi

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật