Tên di sản : Đình làng Nham Thôn
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3250/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đình Nham Thôn được dựng trong một không gian thoáng đãng ở trung tâm làng Nham Thôn, xung quanh rất nhiều cây xanh. Mặt chính của đình hướng ra sông Mã về phía Nam. Đình Nham Thôn bề thế, đồ sộ với mái ngói nghiêm trang cổ kính, đình này đẹp vào loại nhất nhì của huyện Vĩnh Lộc hiện nay.
Năm 2003, đình Nham Thôn được trùng tu bằng nguồn vốn của địa phương khoảng 60 triệu đồng. Trước đây để sông Mã còn thấp, phía tả ngạn của sông Mã (nơi địa điểm đình toạ lạc hiện nay) chưa bị sạt lở nên phía trước đình còn có sân rộng tới sát mép đó. Nhưng từ khi bên tả ngạn sạt lở, sân đình đã bị thu hẹp, đê sông Mã được cơi cao, vì vậy nên đình trở nên thấp. Những năm bão lụt, nước sông dân cao, nước mưa lớn đã làm cho không gian đình trở nên ẩm thấp. Đợt trùng tu năm 2003, đã nâng cao đình lên khoảng 1m. Hiện nay đình ở sát mép đê, diện tích sân đình chiều rộng chỉ còn khoảng 2m.
Đình Nham Thôn có 5 gian tiền đường và 1 gian hàu cung, diện tích 180m2, toạ lạc trên diện tích rộng 818m2. Đình có tất cả 12 cột lớn (chu vi cột 1,2m; cao 4,25m), 12 cột quân (chu vi cột 1,07m; cao 3,3m) bằng gỗ sến và gỗ lim, 4 cột hiên bằng đá đục vuông vức (chân đế 30 x 4cm, thân cột 20 x 4cm, chiều cao 2,1cm). Các hàng chân cột gỗ, cột nào cũng được kê trên chân đế tảng vững chắc và phía trên là hệ thống vì kèo đỡ mái đình. Sáu vì kèo đình Nham Thôn được kết cấu giống nhau theo kiểu "chồng rường kẻ bẩy". Đây là kiểu liên kết chính của đình. Kiểu vì kèo này để lộ ở phía hàng cột trước hiên vươn lên từ mặt tảng gắn chặt kẻ bẩy vào đầu cột theo ba chiều không gian. Kẻ bẩy vươn qua không gian của hiên ăn mộng vào đầu cột con để cho nghé kẻ thêm phần chắc chắn ở điểm nối giữa xà nách và xà con. Xà hiện ở đầu cột hiên cùng với xà đai ở đầu cột con liên kết chặt chẽ hai vì kèo của một gian. Hệ thống kết cấu liên quan đến cột hiên và cột con tạo nên một nét điển hình nhất trong bộ khung gỗ truyền thống của các đình làng Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX.
Hệ thống "bẩy" ở đầu cột hiên đỡ cái "tầu" của kết cấu mái và "lá sòi" chạy suốt chiều dài của giọt gianh. Đây là các chi tiết kết cấu làm chức năng kết cấu ở khoảng không gian nằm giữa mặt đường theo hàng cột và mặt dốc theo mái. "Bẩy" là phần đỡ mái, được tạo tác cả một thân gỗ. Nó có nhiệm vụ chịu lực, còn nghé kẻ chỉ là một bộ phận của mộng đầu cột con tuy cũng giữ vị trí nhất định trong kết cấu "tầu" làm chức năng hoành ở diềm mái.
Phần "bẩy" ở phía trước và phía sau hiện có cấu tạo giống nhau. Đặc biệt, từ phần nghé kẻ trở lên là các rường được đục mộng ăn vào cột lớn. Liên tiếp là 3 con rường chồng lên nhau làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải.
Con rường thứ nhất được nằm trên xà ngang. Trên xà ngang là một đấu trụ hình vuông để cho mộng của con rường ăn vào làm cho nó chắc chắn. Tiếp đến là con rường thứ hai nằm trên một đấu trụ, tiếp nữa là một đấu trụ bát đỡ con cường thứ 3. Tất cả các con rường này được chạm khắc hình lá cúc cách điệu. Tiếp đến, từ đầu cột cái được bổ mộng cho quá giang chui đầu vào. Trên quá giang là hệ thống các con rường liên tiếp chồng lên nhau. Để đỡ các con rường này là các đấu trụ vuông ngắn. Đầu con rường thứ nhất (tính từ đầu cột lớn) được ăn mộng vào đầu cột lớn. Đầu con rường thứ hai được ăn mộng vào đấu trụ đứng. Hai trụ đứng này được nằm trên quá giang, tạo thành như một giá chiêng. Để giữ cho trụ này đứng vững ngoài việc chân trụ ăn mộng vào đấu bát nằm trên quá giang thì đấu trụ cũng được đục mộng để cho con rường lớn ăn mộng vào. Trên con rường lớn này là một đấu bát đỡ thượng lương là điểm trên cùng của cấu tạo một vì kèo.
Nhìn chung, hệ thống các con rường ngoài chức năng làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải cùng với hệ thống các kẻ bấy là yếu tố chính làm nên kết cấu của vì kèo ngôi đình.
Như vậy, trong tổng số 5 gian, 6 vì kèo, kết cấu của các vì này cơ bản giống nhau về kiểu liên kết.
Về nghệ thuật trang trí:
Đình Nham Thôn là một công trình kiến trúc nghệ thuật lớn. Tuy vậy, các hoạ tiết trang trí chủ yếu được chạm khắc hình lá các cách điệu trên các con rường. Ở những kẻ bẩy cả mái trước và sau được chạm khắc hình linh vật như hươu, rùa, lá sen nổi bật những lá cúc lớn trên toàn bộ bề mặt của kẻ bẩy. Đề tài rồng đơn giản. Nhưng bức chạm khắc này đã làm cho hệ thống vì kèo của toàn bộ nội thất ngôi nhà mềm mại và uyển chuyển hơn.
Trên nóc đình đắp đôi rồng chầu mặt nguyệt. Mái đình được lợp ngói mũi hài. Mái trước được nối thêm ở đuôi phần kẻ bẩy nhằm mục đích để mở rộng công trình. Trang trí ở mái đình chủ yếu là lá cúc cách điệu được tạo tác các con rường. Các đầu kẻ bẩy được chạm bong một số hình rồng và hươu, mã hoá rồng và hoa lá mây mưa.
Do đặc điểm của không gian, nhằm đáp ứng yêu cầu biểu lộ sự tôn nghiêm nên cấu trúc của không gian phân hậu cung kín đáo hơn, ánh sáng tự nhiên ít hơn, trang trí ở đây thưa thoáng và đơn giản hơn.
Bài trí ở đình hiện tại: trong hậu cung đặt ngai thờ và bài vị của vị thuỷ tổ có công khai canh ra làng Nham Thôn là Lê Huy Hoàng. Hai gian bên giáp với gian giữa, ở bên hữu là nơi thờ Trịnh Đình Kiên, Nguyễn Bá Cao, gian bên tả là bàn thờ Lê Trọng Nghiêm, Trần Hữu Đạo là 4 vị tiên hiện có công lập lại làng Nham Thôn sau chiến tranh Trinh - Mạc.
Nhìn chung kiến trúc đình Nham Thôn hiện tại là một công trình khá khang trang bề thế. Cách bày đặt trong đình mạch lạc. Trang trí và kết cấu kiến trúc của đình mang đậm phong cách thời Nguyễn. Vì thế nó có giá trị nhiều mặt: kiến trúc, nghệ thuật, văn hoá tinh thần. Đình Nham Thôn ghi nhận công lao, sức lực của người dân vùng này từ bao đời nay, là nơi hội tụ tài năng, tinh hoa về mỹ thuật và bảo tồn nó đến hôm nay. Người dân Nham Thôn có quyền tự hào về ngôi đình mà họ đã dày công xây đắp và gìn giữ.
Loại di tích:
Với quy mô kiến trúc và nghệ thuật trang trí của ngôi đình như đã trình bày ở trên, đồng thời lại là nơi thờ tự những người có công lao ở đất khai canh, khai cơ xây dựng xóm làng được nhân dân tôn làm Thành hoàng. Đình Nham Thôn thuộc loại di tích kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn ở Thanh Hoá.
Hiện vật trong di tích:
Khu di tích đình Nham Thôn là một công trình có giá trị cả về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Theo những người cao tuổi tại địa phương thì đây là nơi có rất nhiều di vật quý giá như bức cửa võng, ngai thờ, bộ bát bửu cùng một số đồ thờ bằng gốm có giá trị khác. Nhưng trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, Nham Thôn trở thành vùng đất tiêu thổ kháng chiến và bị đánh phá, vì thế hầu hết các hiện vật của di tích này đều bị thất lạc và mất mát hết.
Hiện nay di tích có bàn thờ, ngai thờ, bài vị đều mới được đưa vào gần đây.