Tên di sản : Đình làng Lễ Nghĩa
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 154/QĐ – UBND
Giới thiệu
Kết cấu ngôi đình ở xã Xuân thành và bố cục mặt bằng khuôn viên thể hiện:
Tôn ty trật tự trong làng
Tính dân chủ trong cộng đồng làng quê
Là sự kết hợp chặt chẽ giữa giá trị tinh thần (thờ thần làng) với giá trị sử dụng (hội họp, đình đám…)
Ngôi đình là tài sản chung của cả làng. Mỗi người, mỗi thế hệ trong làng đều tìm thấy những kỉ niệm thiêng liêng ở ngôi đình làng mình.
Cuộc khảo sát tháng 11/2002 của nhóm tác giả viết bản hồ sơ này tại đình làng Lễ Nghĩa (thôn 7) cho thấy: ngôi đình tọa lạc tại thửa số 622 diện tích 990m2 tờ bản đồ số 5 do sở địa chính đo vẽ tháng 5/2002.
Đình có 6 gian và 2 gian đầu hồi (gian trái) với chiều dài 22,2m; rộng 10m. 8 hàng cột dọc x 4 hàng cột theo chiều rộng nhà. Tổng số có 32 cột tròn gỗ lim. Mỗi một cột được đặt trên chân tảng đá chạm hai nấc hình tròn theo đường kính cột trên bệ hình vuông. Đình quay hướng Nam, gian giữa rộng 4,3m, tiếp đến gian rộng 3,65m, rộng 3m, gian liền kề gian đầu hồi rộng 1,4m, gian đầu hồi phía Đông rộng 0,6m. Cột cái đường kính 1,2m; cột con đường kính 1,05m. Chiều cao từ đỉnh nóc tới nền 6,5m; chiều cao cột cái 4,5m; cột góc cao 3,15m. Toàn bộ cột, vì kèo, xà, đòn tay, rui mè đều làm bằng gỗ lim.
Sáu bộ vì nóc làm theo kiểu chồng giường, trong đó 4 bộ có kiểu thức giống nhau. Mỗi bộ vì gồm câu đầu đỡ 2 cột giường, 6 đấu và 2 con giường chồng lên nhau, tất cả bào trơn, đóng bén, soi gờ chỉ.
Hai bộ vì hai gian đầu hồi được gia công mĩ thuật chạm khắc tập trung nhất trong toàn bộ công trình. Mỗi bộ vì được tạo bở một hổ phù, quay mặt hướng vào gian giữa, hai hổ phù đối diện nhau. Với kĩ thuật chạm bong rất tỉ mỉ. Đầu hổ phù gồm hai mắt lồi to, được tô rõ tròng đen trắng, mũi to bựa, mũi sư tử, miệng há rộng như đang cười để lộ rõ hàm răng trên màu trắng. Đỉnh đầu hổ phù đội thượng lương. Xung quanh đầu, mặt và hai khóe miệng râu tóc dựng tỏa lên phía trên và hai bên với hình khối nhọn bằng kĩ thuật chạm thủng, chia tách rõ ràng từng sợi. Hai cánh tay hổ phù giang rộng tỳ vào hai đầu của câu đầu, hai bàn tay gấp lại hướng vào nhau ở mặt trên của câu đầu. Tay hổ phù có hoa văn hình xoắn ốc, lá cách điệu tạo thành khối to bằng bề mặt câu đầu làm chức năng của hai xà nóc, là điểm tựa của hệ thống hoành tải hai mái trong phần lòng đình.
Hệ thống xà dọc gồm xà thượng, xà hạ được bào trơn, đóng mộng cá liên kết hai hàng cột cái. Các đầu dư nhô ra từ hàng cột cân và hàng cột hiên chạm lá cách điệu ở điểm tiếp giáp cột, ở điểm kết của đầu dư chạm hoa lá rồng, phượng ở cả hai mặt. Đồ án trang trí ở 16 câu đầu dư tương đối giản, nét chạm bong tạo hình khối to. Cũng với phong cách như vậy, đồ án trang trí được chạm hai mặt bên hai đầu của câu đầu, nơi tiếp xúc với cột cái.
Tại gian giữa còn lại vết tích một khung gỗ dài bằng bề rộng gian, che kín xà thượng và xà hạ được chia thành 3 ô vuông kích thước bằng nhau, nhưng không có ván trong lòng khung.
Hai ô nhỏ ở hai cạnh bên khung gỗ, nơi tiếp giáp cột cái, còn sót lại 4 chữ Hán “Thánh nghiêm cửu trùng”.
Đây là vết tích bức đại tự chữ Hán đã bị bóc gỡ.
Đình làng Lễ Nghĩa là công trình kiến trúc được xây dựng trong cảnh thiên nhiên (nằm ven dòng sông Chu) giống như các công trình đền, đình của hai làng Vực Thượng, Vực Trung. Các vị thần của xã cũng là vị thần của mỗi làng. Đình làng Lễ Nghĩa tuy xây dựng sau hai đình Vực Thượng, Vực Trung (xây dựng năm 1906). Nhưng trước đó làng Lễ Nghĩa cùng thờ chung với làng Vực Thượng, do vậy vi thánh cả của dân xã là Thủy thần Quán sát cũng là vị thần ở đình làng Lễ Nghĩa. Điều này thể hiện rõ ước vọng của dân xã cầu mong dòng sông Chu mang lại sự bình yên và đồng ruộng tươi tốt, cá tôm thật nhiều. Đó là mong muốn rất thiết thực, bởi lẽ ở những thế kỉ trước con người phụ thuộc vào thiên nhiên rất lớn, đặc biệt với nền kinh tế nông nghiệp nguồn nước là quan trọng hàng đầu.