Tên di sản : Đình làng Hồ
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 3987/QĐ-UBND
Giới thiệu
Kiến trúc của di tích:
Cấu trúc của đình trước đây gồm: Cổng đình, Sân đình và tòa Đại đình. Hiện nay trong khuôn viên của di tích chỉ còn lại Sân đình và tòa Đại đình.
Sân đình: nằm trước mặt chính của đình, có diện tích chiều dài 11,7m, chiều rộng 9,6m, nền sân được lát gạch bát màu đỏ loại 25 x 25cm.
Đại đình:
Đình được cấu trúc hình chữ Nhất (-). Kết cấu theo chiều dọc, có kích thước chiều dài 19 m, chiều rộng 9,7 m, gồm 5 gian, 2 chái, 6 vì kèo gỗ, với 4 hàng chân cột (12 cột cái và 12 cột quân); đường kính cột cái 1,10m, chiều cao 4,7m; cột quân có đường kính 0,95m, chiều cao 3,3m. Chiều cao từ Thượng lương xuống nền nhà là 6,0m. Khảo cứu những vết lỗ trên hệ thống cột cho thấy Đình làng Hồ trước đây có hệ thống sân đình. Ngày nay hệ thống sân đình đã bị tháo dỡ. Bộ mái của đình được cấu trúc 2 mái (gồm mái trước, mái sau), đều được lợp ngói liệt và ngói vẩy. Hoành tải rui mè bằng gỗ, nền nhà lát gạch bát màu đỏ. Ở phía ngoài, phân bờ chảy đắp đường gờ chỉ, bờ nóc gắn ngói úp, đao guột để trơn, không trang trí. Đình được mở cửa chính ở hội theo chiều dọc, và các cửa phụ ở hai bên.
Kích thước tính theo chiều ngang:
Gian 1 rộng: 3,45m; gian thứ 2 rộng: 3,30m; gian thứ 3 rộng: 3,30m; gian thứ 4 rộng 3,30m; gian thứ 5 rộng 3,45m; hai chái mỗi bên rộng: 0,60m.
Kích thước tính theo chiều dọc: Từ tường đến cột quân: 1m; từ cột quân đến cột cái: 1,92m; từ cột cái đến cột cái: 3,95m; từ cột cái đến cột quân: 2m; từ cột quân đến tường: 0,75m
Về kết cấu kiến trúc vì kèo:
Vì 1, vì 3, vì 4, vì 5 cơ bản giống nhau về kiểu liên kết: đó là hệ thống kết cấu theo kiểu “Giá chiêng, kẻ chuyền”. Ở mỗi bộ vì kèo này được bắt đầu là hệ thống cột cái được bổ mộng ở đầu để Quá giang ăn mộng vào (mộng ở đây là mộng Én). Phía trên Quá giang là hệ thống kẻ chuyền (kẻ ngồi) ăn mộng vào đấu trụ ở hai bên; đấu trụ được đứng trên lưng Quá giang trên một đấu bát. Để nối đấu trụ là một con rường dài nằm ngang làm nhiệm vụ liên kết. Phía trên con rường này là 2 con rường ngang liên tiếp chồng lên nhau và trên cùng là guốc đỡ Thượng lương.
Ở phía dưới (tính từ Quá giang trở xuống) là hệ thống kẻ chuyền ăn mộng vào đầu cột lớn, mõm kẻ đỡ Quá giang, đuổi kẻ ăn mộng vào xà đùi (xà đùi được bổ mộng ăn vào thân cột cái, đầu xà ăn mộng vào đầu cột quân), điểm tiếp giáp là cột quân, xà đùi, kẻ bẩy. Tại đầu cột quân là một kẻ bẩy, chạy xuống mõm kẻ đỡ xà đùi ăn mộng vào đầu cột quân, đuôi kẻ gác đầu lên tường đốc (trước đây điểm kẻ bấy gác đầu là một cột gạch xây vuông). Và khoảng cách ngăn cách giữa các gian là tường hoa thấp, hiện nay là một bức tường được xây kín ở các mặt và giữa mỗi gian được trổ một cửa ra vào theo dụng ý sử dụng của người đời sau.
Vì kèo thứ 2 và 6: Kết cấu theo kiểu “Chồng rường, giá chiêng”. Từ phần. Quá giang trở lên là các con rường được ăn mộng vào đầu các đấu vuông thót đáy: Gồm Quá giang, đấu trụ, câu đầu, rường ngang, rường dọc đỡ Thượng lương. Phía dưới Quá giang là hệ thống các con rường được kết cấu theo độ dốc của mái,...nó được đỡ bằng một trụ đứng và các đấu vuông thót đáy đứng trên xà đùi. Đầu con rường thứ nhất (tính từ Quá giang) nằm trên cột lớn; đầu con rường thứ hai được ăn mộng vào trụ đứng. Hai trụ đứng này được nằm trên Quá giang, tạo thành như một giá chiêng. Để giữ cho chân trụ này đứng vững, ngoài việc chân trụ ăn mộng vào đấu bát nằm trên quá giang thì đấu trụ cũng được đục mộng để cho con trường lớn (rường bụng lợn) ăn mộng vào. Trên con rường bụng lợn này là một con rường nằm ngang nhưng ngắn hơn làm nhiệm vụ đỡ con rường nằm dọc đỡ thượng lương - điểm cuối cùng của cấu tạo vì kèo.
Về nghệ thuật trang trí:
Trong kiến trúc đình làng, ngoài bản thân kiến trúc (hình khối) thì nghệ thuật trang trí (điêu khắc) giữ vai trò chủ đạo và quan trọng, góp phần nâng giá trị thẩm mỹ của công trình lên một tầm cao hơn.
Ở đình làng Hồ, hình khối kiến trúc của bộ khung gỗ và sự trang trí đường nét (gờ chỉ), nổi, chìm trên các cấu kiện kiến trúc như Quá giang, câu đầu, kẻ chuyền, kẻ bẩy, xà, đã làm cho nội thất của công trình trở nên mềm mại và uyển chuyển. Các đề tài cũng được thể hiện và trang trí trên những bộ phận khác nhau của kiến trúc, đã làm cho công trình hoàn chỉnh hơn.
Đó là hình tượng lá cúc cách điệu chạm nổi trên hệ thống các con rường ở vì thứ 2 và vì thứ 6. Lá cúc ở đây được chạm hình to bản, có đủ sống lá, gân lá, mép lá hình răng cưa gần giống với lá cây dương xỉ. Loài hoa cúc biểu hiện cho bản chất thanh tao, kín đáo và lâu tàn đã thích hợp và ảnh hưởng mạnh tới đạo thiền bình dị, gần gũi thiên nhiên và được sử dụng như một biểu tượng cao quý.
Ở bức vì ruồi (vì thuận) vì thứ 6, trên cùng chạm bức phù điêu hình hổ phù ngâm chữ Thọ, bên dưới là cảnh “Quần ngư tranh thực” bao gồm hình tượng rồng cá, hoa sen trong hồ nước. Ở bức cốn bên tả: từ dưới lên, ở xà đùi chạm hình lá cúc cách điệu, hai bên là tượng nghệ chầu quả cầu, phía trên là tượng long mã, tượng rùa, tượng nghệ, chim phượng, hoa sen trong vân mây. Ở bức cốn bên hữu (từ dưới lên), trên bề mặt và đùi là tượng nghệ chầu quả cầu, phía trên là tượng rồng, cá chép và hoa lá trong vân mây.
Ở vì thứ 2: trên vỉ ruồi chạm hình rồng ngậm chữ Thọ, lá cúc cách điệu, nghề chầu quả cầu, tượng long mã, tượng rùa, chim phượng, hoa sen, cá và hoa lá trong vân mây.
Trang trí hình tượng các linh vật và hoa lá trên hai vì nêu trên cho thấy: Tượng hổ phù là biểu trưng cho sức mạnh và trấn giữ ở các đền thờ, thờ các thần linh; hình tượng rồng mang nhiều biểu trưng, ngoài biểu tượng cho vua, cho nguồn gốc dân tộc, cho nguồn gốc về phồn thực Quốc gia, nó gắn bó và trở thành biểu trưng cho đạo pháp trong các đền thờ, phật pháp trong các chùa tháp ở Việt Nam.
Tượng ngựa hóa rồng là con vật có yếu tố linh thiêng tượng trưng cho điều lành khi thế giới xuất hiện Đức Phật; tượng nghê là con vật biểu trưng cho một ý nghĩa là hãy thành tâm, nhanh chóng đến với đạo Phật; tượng chim phượng (đứng đầu 360 loài chim) tượng trưng cho điềm lành báo hiệu đất nước yên vui, phồn thịnh, thánh nhân giang thế trị vì; tượng rùa biểu trưng cho sự bền vững, trường tồn; tượng cá hóa rồng vốn là một truyền tích phổ biến ở Việt Nam, liên quan một phần tới cội nguồn, cấu trúc và chức năng của con rồng huyền thoại, nó cũng liên quan đến truyện thi cử với tích “Ngư Việt vũ môn”' của nho giáo.
Hình tượng hoa sen cũng được chạm khắc trên các bức cốn; sen là biểu tượng của vũ trụ với dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy my, thanh khiết, quá trình nở hoa kết hạt đồng thời thì vi diệu, không nhiễm bẩn, những đức tính ấy đã đưa hoa sen thành biểu tượng phổ biến của đạo phật; hình tượng mây trời là một biểu tượng của thiên nhiên nó được dùng để diễn tả tư tưởng Phật giáo.
Ngoài ra, trong tất cả các đấu trụ đỡ các con rường ở các bộ vì đều được chạm khắc hình chữ Thọ nổi, theo kiểu chữ Triện. Mô típ này là một đường gấp khúc lặp đi lặp lại theo một kiểu dáng nhất định, dùng để trang trí bề mặt của đấu trụ tạo sự mềm mại hơn là sự phản ánh một chủ đề tư tưởng nào đó!
Nhìn chung, kiến trúc và điêu khắc đình làng Hồ đã thể hiện tư tưởng và quan niệm về vũ trụ trong đời sống của họ. Các bức chạm tinh tế, giàu chất suy tưởng cho thấy đình làng Hồ là một công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu của cư dân miền núi Thanh Hóa, cần phải được tìm hiểu sâu sắc hơn nữa.
Bài trí đồ thờ:
Bài trí đồ thờ ở Đình làng Hồ khác với các ngôi đình khác. Ở đây ban thờ được đặt ở gian cuối tính từ cửa vào. Bệ thờ được xây bằng xi măng gồm 3 cấp. Bộ thấp nhất có kích thước chiều dài 1,75m; chiều rộng 0,70m, chiều cao 1,10m. Bệ thứ hai từ dưới lên có kích thước chiều dài 1,75m; chiều rộng 0,75m; chiều cao 1,50m. Bệ thứ ba (cao nhất) có kích thước chiều dài 1,75m; chiều rộng 0,90m; chiều cao 1,80m. Trên bệ thờ đặt các hiện vật như: Ngai thờ, bài vị của Thành hoàng làng, khay mịch, bát hương, đài nước.v.v...và một số đồ thờ khác.