Tên di sản : Đình làng Đông Môn
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 117/ VHQĐ
Giới thiệu
Đình làng Đông Môn là ngôi đình cổ xây dựng cách đây 242 năm. Đình ở mép hào thành cổ phía cửa Đông thành nhà Hồ, cách cổng động vài thước. Đình hướng Nam, đình được xây dựng trên khu đất bằng phẳng rộng rãi, với chiều dài 34 m, chiều rộng 27,7m. Diện tích là 942m2, xung quanh có tường xây bảo vệ có 2 cổng ra vào, thuộc thửa đất số 1A.
Phía Bắc giáp nhà dân.
Phía Nam giáp đường làng rồi đến hào nước thành nhà Hồ, bên cạnh cầu đá cổ bắc qua hào. Phía tả là cây bàng cổ thụ có cách đây vài trăm năm.
Phía Đông là cửa phụ có đường trụ giao thông liên xã.
Phía Tây giáp ngõ xóm.
Đình làng Đông Môn gắn với cửa Đông thành nhà Hồ.
Cấu trúc Đình:
Đình đặt trên một dải đất bằng phẳng giữa gò đất cao, mặt hướng xuống hào nước thành nhà Hồ. Từ đường lên tam cấp sân đình, sân đài 27,7m; rộng 12m; qua tam cấp bước lên nền đình.
Đình có 2 ngôi: Ngôi đình ngoài 5 gian, 2 chái, cấu trúc 4 mái. Nền đình dài 23m, rộng 12m.
Đình trong giáp với đình ngoài, tạo nên kết cấu hợp nhất theo kiểu chữ J in, trong kiến trúc cổ gọi là chữ Đinh (J) chuôi vồ. Phần chui vồ là hậu cung hay còn gọi là nội diện là trung tâm thờ thần.
Kết cấu kiến trúc:
Vào công trình đình Đông Môn: ngay chính giữa trước sân đình là cổng đình, cổng đình có 2 cây cột nanh cao 7m, cột nanh cổng chia làm 3 phần: đế, thân, chóp. Đế rộng vuông 4 mặt mỗi cạnh 0,80m, cao 0,80m. Phần trên đế thắt lại có các đường gờ chỉ. Tiếp đến thân trụ cột thu lại mỗi cạnh 0,75m, càng lên trên càng thu lại, phần này cao 5m, trang trí 3 mặt còn hai bên giáp tường chỉ trang trí phía trên. Ba mặt trang trí thì phía ngoài hai cột có đôi câu đối đã bị rêu phong mờ mất chữ. Phần mũ (chóp), trang trí cả 4 mặt có các đường gờ nổi tràn ra, phía trên nhỏ dần và thắt lại xoay lại xòe nở ra trên cùng ngày xưa có đôi nghê chầu, nay bị đổ, phần này cao 1,2m.
Qua trụ cỏng vào sân đình, sân lát gạch vuông 30 x 30cm. Sân đài 27,7m, rộng 12m. Phía trước và hai bên có tường xây, chủ yếu là xây gạch vồ dày, kiểu gạch Trần và thời lê.
Nền đình lát gạch, giữa hiên đình có bị đá vuông 1 x 1 mặt có gờ nổi 2 lớp, gờ ngoài rộng 10cm, mặt trong 0,80 x 0,80, nổi cao 2cm.
Mặt bằng kiến trúc gồm 5 gian hai chái. Gian giữa rộng 4,55m. Bốn gian bên rộng 3,8m. Hai chái rộng 1,50m. Chiều ngang có 6 hàng cột. Hiên trước rộng 1,25m, cột con đến cột cái 2,18m, cột cái đến cột cái 4,70m, phía sau tương tự trước. Cột hiên bằng đá vuông đá tảng 45 x 45cm, phần thân cột đá vuông 23 x 23cm. Toàn bộ cột cao 2,20m.
Kết cấu vì kèo: Có 3 cặp đối xứng dọc
Hai vì giữa (vì 3, 4) chạm trổ cầu kì.
Phía trên kết cấu theo kiểu trồng rường giá chiêng, chạm trổ cầu kì, xoi gờ chỉ. Hai vì có 4 đầu dư (hình đầu rồng) chạm thủy bong đường nét tỉ mỉ cầu kì có hàm dưới, hàm trên, mũi, mắt, râu…Đầu dư phía trong dài 1,3m, chui qua cột dài về phía sau 40cm, phần nách của 2 vì, 4 nách trang trí trong ô ván khối lam giác gỗ dày 30cm, chạm thủng, bong hình rồng, phượng, ly, quy (tứ linh) chen lẫn thứ quý (thông, cúc, trúc, mai) đường nét tinh vi trau chuốt, mềm mại nhưng chắc khối.
Hai vì bên (vì 2 và 5) câu đối giống nhau, trên nóc (từ khóa giang lên giống hai vì giữa cùng trống rường giá chiêng. Liên kết giữa cột cái và cột hiên là kẻ bẩy chuyển từ cột cái qua cột quân, ngồi trên cột hiên. Kẻ bẩy chuyền chỉ xoi chỉ không chạm.
Hai vì hồi (vì 1 và 6) tương tự nhau. Phần từ khóa giang trở lên trồng rường, phần trên giá chiêng (phần chóp), hai hồi nạo 2 hổ phù hệ mặt trời. Phần dưới khóa giang có long, nách, giữa cột cái và cột quân có truồng rường, còn từ cột con (quân) ra hiên góc có bẫy bắt quyết từ cột cái ra hiên chái có bẫy, tạo nên kết cấu liên hoàn chặt chẽ, chái có mái cong.
Xà Hoàng ngày xưa là vuông, sau thay xà hoành tròn, ruôi mà lim, lợp hai lớp ngói, ngói lót và ngói mũi hài. Do biến thiên lịch sử và lợp lâu ngày nay phải thay thế một phần ngói máy dập ở phía dưới (từ cột cái xuống), ở các ngày xưa có các con giống, nay không còn gian giữa có bức chạm, chạm gỗ tinh vi, có giá trị nghệ thuật cao.
Đình ngoài để trống đình trong (nội điện) vì kèo gỗ đơn giản, xung quanh xây gạch, là nơi thờ tự thâm nghiêm. Ngày nay đình trong không còn.
Phía sau Đình có sân sau, sân lát gạch, 2 mặt có tường xây.