Tên di sản : Đình làng Bồng Thôn

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : Số 2516/QĐ-UBND

Giới thiệu

Đình làng Bồng Thôn là một ngôi đình cổ được xây dựng từ triều Nguyễn. Đình được dựng theo hướng Nam, tọa lạc trên khu đất rộng thoáng, giữa khu vực cư trú của dân làng. Kiến trúc của ngôi đình nằm trong khuôn viên khép kín bởi hệ thống tường rào bao quanh.

Quy mô cấu trúc:

Toàn bộ không gian đình hiện tại được phân bố bao gồm: Sân, nhà Tiền đình, Hậu cung nằm trên một mặt bằng, đất đai đã được khoanh vùng bảo vệ thuộc 3 thửa số 217, với diện tích 400m2 theo bản đồ địa chính xã Vĩnh Minh, huyện Vĩnh Lộc ký duyệt năm 2003.

Phía Bắc giáp ngõ xóm.

Phía Nam giáp ngõ xóm.

Phía Đông giáp thửa 196, thửa số 232.

Phía Tây giáp đường làng.

Từ ngoài vào trong di tích có các công trình sau:

Cổng đình: Trước kia cổng đình xây theo hướng nam, hướng chính của đình, được xây dựng to, bề thế gồm 2 cổng phụ và một cổng chính, có hai cột nanh hai bên, hai trụ biểu gắn hình hai con nghê. Tuy nhiên, hiện tại cổng đình đã bị thay đổi hoàn toàn bằng một cổng mới ở hướng đông tiếp giáp với đường làng và sát tường rào hướng nam. Cổng mới xây 2 cột nanh cao to, cổng rộng 3,5m; 2 cánh cửa sắt đóng mở thuận lợi từ cổng vào sân đi dọc theo hết tường sân phía nam đến hết gần giáp tường rào phía tây khoảng 5m vào đến sân đình.

Sân đình: Có chiều rộng 10,8m; chiều dài 15,8m, nền lát gạch bát. Sát cạnh sân ngay hai bên hai đầu hồi phía Tây và phía Đông đình có xây 2 cánh gà có chiều rộng: 1,7m; dài 2,1m. Phía trong được vẽ tranh tứ quý nhưng ngày nay nhân dân quét vôi l��i còn rất mờ các hình tranh nói trên, hai bên cánh gà có xây 2 cột nanh cao hiện tại đang còn, đỉnh 2 cột nanh đắp hình búp sen. Cột nanh cao 4m, chân đế vuông: 85cm x 85cm, 70cm x 70cm, 50cm x 50cm đắp gờ chỉ xây giật cấp.

Nhà Tiền đình: Nhà Tiền đình đặt theo hướng Nam, xây trên nền cao hơn mặt sân là 10cm, xung quanh bó vỉa gạch, riêng bờ hiên được lát bằng những phiến đá xanh to chạy hết chiều dài hiên.

Nhà Tiền đình được cấu tạo 5 gian. Chiều dài nền đình 15,8m, chiều rộng 8,2m với diện tích là 129,56m2. Trước kia mặt hiện trước để thoáng và không có hàng cột hiên. Trong thời gian hợp tác xã dùng đình làng làm kho hợp tác nên đã xây cuốn cót ở 2 đầu hồi Tây Nam và Đông Nam. Kích thước các gian tính từ Đông sang Tây như sau:

Gian thứ nhất rộng 2,9m

Gian thứ hai rộng 3,0m

Gian thứ ba rộng 3,3m

Gian thứ tư rộng 3,0m

Gian thứ năm rộng 2,9m

Cấu trúc ngang thân đình gồm 4 hàng cột: 2 hàng cột cái trước, sau, 2 hàng cột quân trước, sau.

Từ giọt mái ngói đến cột quân: 1,3m. Từ tim cột quan đến tim cột cái trước: 1,3m. Từ tim cột cái đến tim cột cái: 2,8m. Từ cột cái sau đến cột quân sau: 1,3m. Từ cột quân sau đến tường hậu: 0,95m. Cột cái có chiều cao là 4,53m, đường kính cột 0,42m. Cột quân có chiều cao là 3,67m, đường kính cột là 0,37m. Kích thước chân tảng cột cái 55cm x 55cm. Kích thước chân tảng cột quân 45cm x 45cm.

Như vậy, ngôi đình có tổng số 24 cột: 12 cột cái, 12 cột quân bằng gỗ, đứng trên hệ thống chân tảng.

Các cột trong ngôi đình này có tỷ lệ đường kính tương ứng với hình dáng của cột cũng có quy định rõ ràng. Các cột được tạc theo kiểu “Thượng thu hạ thách”, các xà, câu đầu đều có sự tương ứng với nhau giữa xà với một hợp lý và hài hòa.

Kết cấu vì kèo:

Đình gồm 5 gian, 6 vì kèo có kiến trúc tương đối cân đối, đối xứng nhau: gian đầu đối xứng với gian cuối, vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng với vì 5, vì 3 đối xứng với vì 2.

Vì 1 và vì 6 có kết cấu kiến trúc giống nhau, theo hệ thống thể thức giá chiêng chồng rường kẻ hiên trước, bẩy sau có nghĩa là từ cột quân trước và từ cột quân sau đến thượng lương đình được kết cấu theo kiểu con so chồng rường kẻ chuyền, trên cùng là các con rường chồng lên nhau nhưng tỉ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái, nó được đỡ bằng những đấu trụ vuông vắn. Đầu con rường thứ nhất trên vì nóc ăn mộng vào đầu cột cái, đầu con rường thứ hai ăn vào đầu trụ đứng, để nối hai trụ đứng này là một con rường dài nằm ngang ăn mộng vào đỡ hoành tải của hai mái trước và sau (còn gọi là rường bụng lợn). Như vậy, các con rường ngoài chức năng đỡ hoành tải là yếu tố chính trong kết cấu để tạo nên vì kèo của ngôi đình. Trên các con rường này được nghệ nhân thời bấy giờ tạo tác hoa văn trang trí hình hoa cúc cách điệu, chữ thọ trông mềm mại, uyển chuyển.

Vì 2, 3, 4, 5 có kết cấu kiến trúc giống nhau, theo hệ thống thể thức giá chiêng kẻ chuyền, chồng rường, kẻ hiên trước, bẩy sau.

Phần dưới xà lòng, xà nách, nối cột cái và cột quân được kết cấu kiểu kẻ chuyền. Từ cột quân sau ra tường hậu được kết cấu kiểu bẩy sau gác lên tường hậu.

Từ mái hiên trước đến cột quân được đặt hoành lồng qua lá dong đặt trên kẻ hiên. Đầu nghé đỡ xà ngang, xà ngang liên kết cột quân với cột cái. Từ cột quân đến cột cái là kẻ chuyền (kẻ ngồi). Từ cột cái lên nóc đến cột cái sau kết cấu giá chiêng trồng rường, các con rường chồng lên nhau theo tỷ lệ ngắn và thu hẹp lại theo kết cấu mái. Từ cột cái sau đến cột quân sau là kẻ chuyền, liên kết cột cái với cột quân là xà ngang. Từ cột quân sau đến tường hậu là bẩy sau đặt trên tường hậu làm chỗ đứng vững chắc cùng bức tường hậu đỡ toàn bộ lực mái ngói sau. Toàn bộ xà thượng, xà hạ, xà thế hoành tải đều được làm bằng gỗ. Mái lợp ngói mũi hài, bờ giải được xây vuông góc với bờ nóc chạy xuống, phía dưới trát vữa hồ, trang trí đường xây giật cấp đáy rộng để chận mái, đắp vuông tạo thành bờ guột. Hai đầu nóc đình có đắp trụ vuông giật cấp, giữa mái nóc đình đắp hình con cá chép.

Nghệ thuật chạm khắc tập trung ở 6 bộ vì kèo, xà lòng, xà nách, kẻ bẩy, kẻ chuyền, kẻ hiên là những phần kiến trúc quan trọng nhất của ngôi đình, do vị trí phô diễn và có tác dụng chịu lực (lực nén trọng lượng của mái nhà, lực giằng để liên kết các bộ phận khung nhà).

Đình làng là chốn linh thiêng, thờ vị Thành Hoàng làng. Vì vậy các đề tài ở đây mang tính chất truyền thống, thể hiện tinh thần ấy là đề tài Long, Ly, Quy, Phượng, được sử dụng vào chạm khắc trang trí, chiếm vị trí chủ đạo trong công trình. Sáu bộ vì kèo chạm đề tài hình cánh sen, hoa cúc cách điệu xen lẫn vào hình tượng linh thiêng hóa (Long - Ly - Quy - Phượng) là những con vật gần gũi với đời sống của cư dân nông nghiệp. Tất cả những họa tiết trang trí mang phong cách kiến trúc nghệ thuật triều Nguyễn mang đậm màu sắc tôn giáo phù hợp với đời sống dân gian, thể hiện cuộc sống no đủ của con người thời bấy giờ.

Hậu cung: Trước kia nhà Hậu cung được xây 3 gian 4 vì kèo gỗ, nhưng những năm gần đây nhà Hậu cung bị bão đổ nhân dân xây dựng lại trên nền móng cũ nhưng đã thu hẹp lại so với diện tích cũ, do nguồn kinh phí khó khăn.

Hiện tại, nhà Hậu cung bây giờ cách nhà Tiền đình qua sân lát gạch. Sân Hậu cung có chiều dài 6,9m, rộng 2,4m; diện tích 16,7m2. Nhà Hậu cung được xây với chiều dài 6,9m, rộng 3,5m; diện tích 26,65m2.

Nhà gồm 3 gian 4 vì kèo gỗ, 2 vì chính giữa và hai vì gác đốc tường, các vì này được bào trơn đóng bén, đòn tay rui mè được làm bằng luồng, mái lợp ngói mũi hài, nền lát gạch bát đỏ.

Trước kia trong lòng nhà Hậu cung được đặt hương án bằng gỗ có bài vị gắn thờ thần của làng, nhưng hiện tại bị thất lạc mất. Nhân dân xây bệ thờ bằng xi măng đặt các đồ thờ tam sự, đài rượu, tân long...

Các hiện vật trong di tích:

Bát hương gốm (mới): 04 cái

Cây đèn gỗ (mới): 08 cái

Ống hương gỗ (mới): 06 cái

Hạc gỗ (mới): 02 con

Lư hương đồng (mới): 01 cái

Độc bình gốm (cỡ lớn) mới: 02 cái

Mâm bồng gỗ mới: 02 cái

Đài nước (gỗ mới): 20 cái

Lộng vải: 03 cái

Loại di tích:

Đình làng Bồng Thôn xã Vĩnh Minh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa là Di tích kiến trúc nghệ thuật.

 

Hình ảnh Đình làng Bồng Thôn

Xem tất cả
Đình làng Bồng Thôn

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật