Tên di sản : Đình-Đền Thiết Cương
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 160/QĐ- UBND
Giới thiệu
Thiết Cương xã Dân Quyền là một vùng đất cổ, tại nơi đây đã phát hiện được nhiều trống đồng loại I, loại II (cách đây trên hai ngàn năm cùng nhiều hiện vật gốm cổ và hiện vật đồ đồng, Thiết Cương là vùng đất địa linh có nhiều cồn, gò có di vật cổ. Tại khu đình - đền là một gò đất cao tương đối bằng phẳng, phía Đông Bắc là dòng sông Hoàng Giang (Sông nhà Lê), phía Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam có những gò đất cao hình thú thiêng: hình hổ phục, rồng chầu. Đình - Đền Thiết Cương đã được xây dựng trên đền phủ thờ Bà Phương Anh phu nhân chi thần, về sau dựng thêm ngôi đình phía trước cùng hướng nên gọi là Đình - Đền để thờ Ông Cao Minh cùng bà Phương Anh phu nhân.
Trải qua biến thiên lịch sử Đình - Đền cổ bị hư hỏng đến thời Nguyễn niên hiệu Minh Mạng thứ 11 (1831) Đình - Đền được trùng tu lần thứ nhất, đến niên hiệu Tự Đức thứ 21 năm (1868) Đình - Đền được tiếp tục trùng tu còn tồn tại đến ngày nay Đình - Đền Thiết Cương toạ lạc hướng Tây Nam trên thửa đất số 383, có chiều dài 30m, chiều rộng 2m, diện tích hơn 500m2.
Khu vực I: (khu vực bảo vệ bất khả xâm phạm) hơn 500m2.
Phía Bắc giáp thửa đất số 336.
Phía Nam giáp đường liên hương và Đình - Đền.
Phía Đông giáp thửa đất số 336.
Phía tây giáp đường làng (theo bản đồ Xã Dân Quyền tờ Số II đo vẽ năm 1985 chỉnh lý năm 1996).
Khu vực II: Gồm ao Đình - Đền sân vườn Đình - Đền: 2.800m2, thuộc thửa đất số 371. Khu vực này dùng trồng cây, công viên, ao thả cá, nơi giải trí và tổ chức lễ hội hàng năm.
Khảo tả mặt bằng di tích Đình - Đền Thiết Cương:
Ngôi tiên đường Đình - Đền dài: 16,9m, rộng: 10,15m, diện tích xây dựng ngôi tiền đường tương đương:170m2; gồm một ngôi nhà 5 gian 2 chái (hai vẫy) theo kiểu 4 mái phân theo các gian (kể từ Tây qua Đông), gian thứ nhất rộng: 2,5m; gian thứ 2 rộng: 29m; gian thứ 3 (gian giữa) rộng: 3,67m; gian thứ 4: 295m; gian thứ năm: 2,5m; hai hồi mỗi bên rộng 0,9m; tường hồi mỗi bên dày 0,3m.
Kết cấu cột theo chiều ngang.
Cột cái đến cột cái rộng: 3,25m; Cột cái đến cột quân trước rộng 1,6m; Cột quân đến Cột hiện trước 1,70m, gia hiên trước: 0,55m; Cột cái đến Cột quân sau: 1,15m; cột hiên đến trường hậu 0,25m; tường hậu dày 0,25m.
Ngôi chính tẩm (Hậu cung) 3 gian cùng hướng với ngôi tiền đường có kích thước dài: 9,5m; rộng 5,2m; diện tích xây dựng tương đương 50m. Giữa hai nhà có ngôi nhà cầu (trung đường). Hai ngôi nhà sau bị xuống cấp đã hạ giải hiện nay còn nền móng.
Khảo tả kiến trúc ngôi tiền đường, Đình - Đền Thiết Cương là một công trình kiến trúc nghệ thuật và là Công trình lịch sử văn hoá làng xã, nên Đình - Đền là khu trung tâm và là khu kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu.
Đình - Đền là công trình kiến trúc nghệ thuật. Quy mô cấu trúc là một ngôi nhà 5 gian, 4 mái với các đầu cong uốn lượn như có thể đang bay trong không trung. Bốn góc đầu đao cong uốn lượn được chạm khắc cầu kỳ, đao kìm ở 4 góc và hai hồi. Tiếc rằng cặp phượng rồng chầu ở mái không còn nguyên vẹn nhưng qua vết đắp cũng cho ta hình tượng cả không gian cao vút bay lượn trong không trung, phần mái cong uốn lượn 4 mái đã thể hiện đậm đà bản sắc dân tộc. 4 mái lợp ngói vẫy (mũi hài) như thể vươn mình chào đón 4 phương.
Phần kiến trúc bộ mái kèo chịu lực đầy dáng nghệ thuật. Nhà 5 gian: hai vì gian hồi đối xứng nhau trên nóc là hai nạm hồ phù, có vì kèo bắt quyết chéo xuống bốn góc như tạo thế đường bay ba gian giữa có kiến trúc bộ kèo chồng rường, giá chiêng kẻ chuyền bẩy trước, sau. Ở vì 2, vì 3, vì 4, vì 5. Về kết cấu chịu lực bốn vì này có con ngang trước, sau. Vì 2 và vì 5 có xà lòng, vì 3, và vì 4 không có xà lòng.
Ngày xưa nhà có 4 cột gồm: 2 cột cái, 2 cột quân theo kiểu kẻ bẩy chuyền. Đến niên hiệu Tự Đức thứ 21 (năm 1868) đã cho gia cố tường hậu, gia hiên trước cho công trình bền vững và tiện lợi sinh hoạt, xây tường hậu và hai hồi tạo cho công trình bền vững, phần trước cho gia thêm có con ngang kéo dài mái.
Đặc biệt toàn nhà là một trơn, riêng hai cột quân sau ở gian giữa được sơn son có rồng cuốn thuỷ thiếp vàng. Hai bẩy giữa (sau đuôi kẻ bẩy) chạm trổ hình long hoá. Hai đuôi bẩy kẻ trước trạm trổ hình phượng hàm (ngậm) thư.
Phần gia hiên trước có con ngang một con hiên, có một đá vuông, tảng cổ bòng. Cột đá vuông 0,20 x 0,20; tảng cổ bòng cao 0,35m2; 0,30 x 0,30m.
Cột hiện trước cao: 1,90m
Cột quân trước sau cao: 3,20m, chu vi 1,15m; đường kính tương đương 0,34m; tảng vuông: 0,52 x 0,52m.
Cột cái cao 4,6m; chu vi: 1,25m; đường kính tương đương 30,44m; tảng vuông: 0,60 x 0,60m; nóc cao gần 6m.
Bốn vì: vì 2, vì 3, vì 4, vì 5 (Có con ngang trước sau).
Xà dọc có tiết diện 0,28 x 0,25 xoi chỉ ống, sống dừa.
Xà, có hai hàng xà, mỗi cột gồm xà thượng, xà hạ đều vuông xoi chỉ ống sống dừa.
Phần xà cái có xà thượng, xà hạ đều xoi cầu kỳ. Phía trên có xà hoành (mào hoành).
Xà con cũng có hai hàng, xà thượng, xà hạ lại có mào hoành - tàu mái trước sau.
Hoành gỗ tròn gồm 24 xà hoành mỗi gian.
Rui, mè bằng gỗ lim.
Ngói lợp hai lớp gồm: lớp ngói lót (chiếu) và lớp trên ngói mũi (ngói vẫy).
Trong hệ thống xà, có xà hạ đại gian giữa chạm trổ hình tứ linh (long, ly, quy, phượng) chầu đối xứng ở giữa có mặt nguyệt.
Hai câu đầu gian giữa (câu đầu 3, câu đầu 4) ở phần bụng chạm xoi kẻ chỉ cầu kỳ bên trong có kẻ hàng chữ Hán chữ nổi:
Phía Tây đề “Tu tạo Minh Mệnh thấp nhất niên (1831). Phía Đông (vì 4) đề “Trọng tu Tự Đức nhị thập nhất niên (năm 1868).
Tóm lại phần kiến trúc nghệ thuật Đình - Đền Thiết Cương ngôi tiền đường còn tương đối nguyên vẹn về kết cấu, về nghệ thuật và phong cách đây là một điển hình về nghệ thuật chạm khắc gỗ triều Nguyễn nữa đầu thế kỷ XIX.