Tên di sản : Địa điểm Đình, Chùa Quan Chiêm
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 453/QĐ-VHTT
Giới thiệu
Lịch sử chùa Quan Chiêm:
Theo bản Tóm tắt lịch sử văn hóa làng Quan Chiêm, xã Hà Giang cho biết: trước kia chùa được xây dựng theo kiểu chữ Đinh (J), mang đặc điểm kiến trúc truyền thống của người Việt với 1 gian Hậu cung và 3 gian Tiền đường quay mặt về hướng Bắc. Chùa được xây dựng bằng tường gạch, bộ khung bằng gỗ, mái ngoài lợp ngói mũi, bên trong liệt,…trải qua nhiều thiên tai, địch họa và những biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa cũ bị phá hoại vào năm 1962, gạch ngói, khung gỗ của chùa được mang về xây dựng trường Tiểu học xã Hà Giang, đồ thờ tự bị thất tán, đất đai bỏ hoang hóa. Những năm 1980 trở lại đây, bà con nhân dân trong làng đã lên đây đẻ trồng hoa màu đỗ đậu, không giám xây nhà để ở.
Hiện nay, dấu tích còn lại ở khu vực chùa cũ là: 6 tấm bia đá lan giai cũ, 1 cột hiên bằng đá bị gãy, 7 cuốn sách chữ Hán, 1 bia đá bị mờ có hoa văn thời Lê và 1 cái thạp đựng nước bằng chất liệu gốm sứ cũ, hoa văn men rạn màu xanh có viết chữ Hán màu trắng trên bề mặt, 1 tháp, và khuôn viên đất đai của chùa cũ nằm tách bạch ở phía sau khu dân cư làng xóm trù phú.
Những năm gần đây, do nhu cầu về tín ngưỡng tâm linh của nhân dân địa phương, xuất phát từ giáo lý “Từ bi hỷ xả” của đạo Phật và cũng là một nét đẹp trong văn hóa của người Việt, để giáo dục đạo đức cho con cháu biết sống yêu thương và đùm bọc lẫn nhau, vào năm 2006, bà con nơi đây đã chung tay góp công sức và tiền của xây dựng lại một số hạng mục công trình nhà tạm trên khuôn viên của chùa Quan Chiêm cũ để làm nơi thờ Phật, Thánh.
Ngày nay, đến tham quan khu di tích lịch sử địa điểm chùa Quan Chiêm theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình sau: Sân vườn, nhà đặt tượng Tam Quan, Tháp chùa, nơi thờ Mẫu và nơi thờ vọng.
Sân vườn: Từ phía dưới cổng bước lên sân di tích qua 7 bậc thang được xây bằng gạch vữa. Sân được thiết kế theo kiểu bậc thang, bậc thứ nhất để nền đất và trồng hoa cây cảnh, bậc thứ hai lát gạch, trên phần sân này có dựng một tấm bia đá cũ màu trắng, thân bia khắc chữ Hán nhưng đã bị mờ hết, còn lại 5 trong số 6 chữ Hán khắc tên bia có nội dung: Tư văn Tống Quan bi, trán khắc lưỡng long chầu nhật, rồng được tạo khối nổi theo kiểu rồng yên ngựa, vi cá chép vẩy cá rô. Viền xung quanh chạm hoa cúc dây. Bệ đáy chạm kiểu chân quỳ có các bông sen xếp chồng lẫn nhau, mang phong cách nghệ thuật thời Lê Trung Hưng. Bậc sân thứ ba cũng được lát gạch vữa. Xung quanh sân được xây móng bao quanh để đất trống không bị lở.
Nhà đặt tượng Tam Bảo: Từ sân lên nhà thờ Tam Bảo Phật là bậc tam cấp, lát bằng đá lan giai của chùa cũ. Căn nhà này được cấu trúc hình chữ nhị gồm Tiền đường và Hậu cung.
Tiền đường: Là ngôi nhà 3 gian, được cấu trúc bởi hai bào trơn đóng bén, gác chếnh lên tường long cốt, phía sau có hai cột đỡ, các xà gác lên tường hồi, nhà xây theo kiểu tường hồi bít đốc; Tiền đường có kích thước chiều dài là 6,7m; chiều dài gian 1 và gian 3 bằng nhau, mỗi gian dài 2,1m, gian giữa có kích thước lớn hơn và có kích thước là 2,5m; chiều rộng lòng nhà là 3,6m; chiều cao từ nền nhà đến thượng lương có kích thước 3,7m, nền nhà lát gạch đỏ kiểu chữ Công (I); chiều cao của cột nhà là 2,87m; chu vi cột là 65cm; hiên rộng 1,23m; hàng cột hiên gồm hai cây được đắp bằng xi măng cốt thép giả cột gỗ, chiều cao của cột hiên là 1,9m; chu vi cột là 65cm.
Từ nhà Tiền đường vào Hậu cung được trổ một cửa kiểu vòm cuốn, cửa có kích thước chiều cao 1,87m và chiều rộng 1,51m, cửa đế trống, không có cánh. Qua cửa bước theo bậc ngũ cấp là lên nhà Hậu cung.
Hậu cung: Là ngôi nhà cũng được cấu trúc thành một gian không có vì kèo, cũng xây theo kiểu tường hồi bít đốc. Hậu cung có kích thước chiều dài lòng nhà là 3m, chiều rộng 3,3m, chiều cao từ nền nhà đến đòn nóc là 2,7m; nền nhà lát gạch bát đỏ kiểu chữ Công (I). Toàn bộ đòn tay, rùi mè bằng luồng, mái lợp ngói hòa bình không liệt. Đại bờ đắp xi măng và vôi vữa để tránh thấm dột vào ngôi nhà.
Tháp: Phía sau nhà Hậu cung là cái tháp chùa. Tháp được xây dựng bằng gạch vữa có kích thước chiều cao 1,9m; chiều rộng đế vuông 4m; chóp vuông 0,35m. Nơi đặt xá lỵ của một vị sư trông chùa đã viên tịch nhưng hiện nay không rõ danh tính vì tài liệu bị mai một trong thời kỳ chùa bị phá.
Bài trí đồ thờ:
Tại Hậu cung: Ban thờ được xây chất liệu bằng vữa và sắt thép, mặt ngoài ốp gạch hoa màu trắng, mặt trước ốp gạch hoa màu đỏ. Ban thờ được bố trí thành 3 lớp thờ:
Lớp bàn thờ cao nhất: Có kích thước chiều dài 1,79m; chiều rộng 0,53m; chiều cao 1,45m. Đây là nơi đặt 3 pho tượng A Di Đà, tượng Thích Ca Mâu Ni và Tượng Di Lặc. Đây là ba vị Phật đại biểu của Tam Thiên Tam Thế Phật, nghĩa là ba nghìn vị Phật ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Hệ thống tượng mới được tạc bằng gỗ vàng tâm sơn son thếp vàng.
Lớp thờ thứ 2: Có kích thước chiều dài 1,79m; chiều rộng 0,5m; chiều cao 1,3m. Đây là nơi đặt tượng Phật quan Thế Âm, thị giả giúp việc cứu tế cho tượng Phật A Di Đà, tiếp dẫn linh hồn chúng sinh về cõi niết bàn để được Phật A Di Đà phổ độ.
Lớp bàn thứ ba: Có kích thước chiều dài là 1,79m; chiều rộng 0,65m; chiều cao 1,15m. Đây là nơi đặt tượng Thích Ca lúc mới sinh. Theo truyền thuyết nhà Phật thì khi Thích Ca Mâu Ni mới giáng sinh, có 9 con rồng xuống phun nước để tắm cho Ngài. Tắm xong Ngài tự đi 7 bước trên 7 bông hoa sen về phía trước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói: “Thiên thượng, Địa Hạ, duy ngã độc tôn” (trên trời dưới đất chỉ có một ta là tôn quý). Phía trước là Bát hương bằng sứ mới.
Tại nhà Tiền đường: Được bài trí hai bàn thờ: Bàn thờ tại gian thứ nhất (tính từ trái qua phải), bàn thờ được xây dựng bằng gạch vữa và sắt thép, có kích thước chiều dài 1,55m, chiều rộng vai 0,68m. Đây là nơi thờ Đức Ông, tượng có kích thước chiều cao 80cm; chiều rộng 42cm; phía trước đặt bát hương sứ mới.
Bàn thờ gian thứ ba: Cũng được xây bằng gạch vữa và sắt thép, có kích thước chiều dài 1,55m, chiều rộng 0,68m. Đây là nơi thờ Thánh Tăng. Tượng Thánh Tăng có kích thước chiều cao 1,03m; vai rộng 0,28m. Phía trước đặt bát hương sứ mới.
Nơi thờ Mẫu:
Là ngôi nhà ba gian hai vì kèo suốt gác chếnh và 1 Hậu cung có kích thước chiều dài 7m; chiều rộng lòng nhà 3m, Hậu cung là 1,6m x 1,79m. Mái lợp ngói Hòa bình, không liệt. Nền nhà được lát gạch bát theo kiểu chữ công (I). Ngôi nhà này được thiết kế 2 cửa có kích thước bằng nhau, mỗi cửa có kích thước chiều cao là 1,86m; rộng 1,17m; 2 cánh cửa được làm bằng tôn.
Bài trí đồ thờ tại nhà Mẫu được bài trí một bệ thờ ở Hậu cung với 3 lớp thờ: được xây bằng gạch vữa, trên mặt ốp gạch hoa màu trắng, có kích thước chiều dài 1,79m; chiều rộng 0,5m. Đây là nơi đặt bát hương thờ Mẫu Liễu Hạnh. Lớp thứ hai là nơi đặt bát hương thờ Đức Thánh Trần. Lớp thứ ba là nơi đặt bát hương thờ công đồng. Phía dưới bệ thờ là nơi đặt bát hương thờ quan ngũ hổ.
Nơi thờ vong:
Là một gian nhà mới được xây nối vào bên phải nhà Tiền đường, có kích thước chiều dài là 4,5m; chiều rộng lòng nhà là 2,6m; nền được lát gạch bát đỏ có kích thước (30 x 30cm) theo kiểu chữ Công (I). Nhà có 1 cửa ra vào với kích thước là 1,77m, rộng 1,08m, hai cánh cửa bằng gỗ làm theo kiểu pano. Phía giữa tường hậu xây lồi về phía sau để làm một ban thờ có kích thước chiều dài là 1,45m, rộng 1m. Đây là nơi đặt bát hương thờ vong các gia đình gửi.
Như vậy, địa điểm chùa Quan Chiêm hiện nay là những hạng mục nhà Tạm do người dân trong làng đóng góp xây dựng nên để làm nơi thờ Phật, Thánh Mẫu và Đức Thánh Trần. Đây là một địa điểm mang nét đặc trưng của những ngôi chùa Bắc Bộ, các dòng tín ngưỡng đan xen với nhau, bổ trợ cho nhau. Trong đó, Đức Phật được thờ chủ đạo và khi xây dựng chùa ban đầu là để thờ Phật, còn các hình thức thờ tự khác người ta mới đưa vào phối thờ sau này.