Tên di sản : Đình Vĩnh Trị
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 4828/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đình Vĩnh Trị là một ngôi đình to đẹp còn bảo tồn được hầu như nguyên vẹn về kết cấu gỗ cho đến nay. Phía trước đình là mặt nước sông Mã, bên phải đình là một khoảng không gian khá rộng đủ sức chứa hàng vạn người, trước đình là một sân rộng lát gạch bằng phẳng, cuối sân là một bức bình phóng lớn án ngữ.
Đình Vĩnh Trị toạ lạc trên mảnh đất bằng phẳng bên bờ bắc sông Mã, như sự điểm tô cho khung cảnh sông nước, làng mạc để hoàn thiện một bức tranh thuỷ mạc. Trước đây, triều đại phong kiến nhà Lê hàng năm đều cấp tiền cho việc tu sửa và tế lễ tại đình.
Đình Vĩnh Trị có quy mô cấu trúc gồm 5 gian đại đình và các gian hậu cung thờ Thần Hoàng kết cấu theo kiểu chuôi vồ. Đình quay hướng Tây Nam, phía trước là sân và hai bức bình phong được xây cao từ chân đế đến đỉnh nóc cao 2,7m, cùng 2 cột nanh cao 2,7m. Thẳng xuống mép nước sông Mã, thuyền từ sông có thể cặp sát bờ vào Đình hành lễ chiêm bái thần.
Sân đình: là sân rộng diện tích 11m x 15,5m, được lát gạch đỏ.
Mái đình: Diện mạo của mái có bị thay đổi đôi chút do thời gian và thiên tai gây ra. Toàn bộ góc mái cong của đình đã bị sửa chữa, thay đổi kết cấu thành góc mái thẳng.
Đình là công trình kiến trúc huy động nhiều công sức của cải của cả dân làng. Sự ganh đua giữa các họ trong làng đã thúc đẩy việc tìm kiếm vật liệu, thợ mộc và đặc biệt là kiểu dáng để ngôi đình vững chãi. Toạ lạc ở vị trí có địa thế cảnh quan đẹp, kiến trúc khá cổ, kết cấu độc đáo, là nơi thờ Thành hoàng. Đây là một ngôi đình với một không gian mở gắn với thiên nhiên, gần với đời. Việc thờ thần, thánh là một trong những đặc điểm của tín ngưỡng người Việt đồng thời sự phân bố không gian trong ngôi đình cũng là biểu hiện vừa mang tính tôn giáo, vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt cộng đồng.
Toà đại đình dài 15,3m, rộng 8m gồm 6 vì kèo bằng gỗ lim, mỗi vì cách nhau 2,7m, tường bít đốc đầu hồi cách mép kèo khoảng 1,5m để tránh bị thấm tường làm hỏng. Mỗi vì đều kết cấu 4 cột tạo được không gian rộng đều trong đình. Vì kèo được làm bằng gỗ lim, theo lối giá chiêng con so trồng rường, thượng lương được đỡ bằng đầu bát tỳ lên đỉnh kèo, thông qua hai trụ giá chiêng kết hợp với xà thượng, xà hạ, xà nách, câu đầu để chống đỡ phần mái đảm bảo một kết cấu vững chắc trước bão, kể cả những cơn lụt lội do nước sông dâng trong mùa lũ. 6 cột hiên của 6 vì kèo được kê trên chân tảng đá hình tròn đường kính 0,33m, cao 0,35m nhằm tránh giọt tranh phả ướt chân cột, phần nào bảo vệ được hàng cột phải tiếp xúc nhiều với mưa nắng, giảm nhẹ hư hỏng. Ngói lợp âm dương trên mái vừa đè xuống sườn nhà vừa kết dính với nhau chặt chẽ cùng với hệ thống bờ bao được đắp trang trí cách điệu gắn kết với 2 trụ biểu vuông tạo thành một khối vững bền. Trụ biểu được xây vuông kẻ chỉ, trên đỉnh trang trí bằng con nghê, trụ được liên kết cùng với tường đốc nối với bát đấu trên đỉnh nóc bằng một hệ thống bờ nóc đắp lưỡng long chầu hoa lửa vững chãi. Hai đốc tường hồi được đắp trang trí mặt hổ phù.
Như vậy, Đình Vĩnh Trị về cơ bản vẫn giữ nguyên "Thức" kiến trúc gỗ Việt Nam có nguồn gốc từ nền kiến trúc dân gian với kết cấu khung gỗ đã quen biết từ lâu đời. Song ở đây, qua việc tu bổ đại đình, kiến trúc truyền thống đã có những thay đổi để phù hợp với đời sống mới đầu thế kỷ XX như xuất hiện những vật liệu mới và kết cấu dáng bền vững với kỹ thuật lắp dựng chắc chắn và đơn giản.
Đình Vĩnh Trị có rất nhiều mảng chạm khắc trên các cấu kiện kiến trúc từ đình vì đến bức mê, bức cốn hoặc ở kẻ bẩy, được bố trí đều khắp toà đại đình đến hậu cung. Nhìn chung, các mảng chạm đều được thể hiện dưới các hình thức chạm lộng, bong kênh, nổi. Nhiều mảng chạm thể hiện trên cùng một thân gỗ nền có độ kênh tới 0,20m, với nhiều chi tiết được kết hợp giữa bong, kênh, lộng khiến ta có cảm giác đề tài được thể hiện nằm giữa nghệ thuật tạc tượng và chạm khắc phù điêu (trên cốn, "kẻ bảy"), hoặc nhiều mảng chạm khắc tạo tác trên mặt phẳng lại được trổ thủng một cách tinh tế gần như đồ khảm (cửa võng).
Có thể nói chạm khắc ở Đình Vĩnh Trị là một sự thể hiện kỹ thuật nghề mộc một cách tinh tế của những nghệ nhân có tay nghề rất cao, không phải là những nông dân làm nghề mộc trong buổi nông nhàn, Song vẫn bị lệ thuộc vào kinh tế nông nghiệp, có thể vì thế mà các đề tài chạm khắc ở đây vẫn gắn với tư duy và ước vọng nông nghiệp.
Đề tài về rồng được thể hiện khá dày đặc trên các mảng kiến trúc như ở bức mê, bức cốn, "kẻ bảy", đầu dư... có thể thấy những con rồng điển hình được chạm khắc vào nửa cuối thế kỷ XVIII.
Nơi thiêng nhất là Hậu Cung là nơi thờ thần Ngự. Gian chính giữa là ban thờ và các đồ tế tự, gian cuối là cỗ ngai có bài vị ghi dòng chữ về tước vị thần “Tham Xung Hộ Quốc Thượng Đẳng Phúc Thần”. Trên ban thờ có nhiều vật dụng tế như chân nến, hộp quả, lư đồng, khay gỗ, bát hương,…
Đôi câu đối treo ở cột:
Thần linh báo mộng phù Vương trừ ngoại tặc
Công trạng lưỡng phong Thượng Đẳng Phúc linh thần
Tạm dịch:
Thần linh báo mộng giúp vua trừ xâm lược
Hai lần được phong công trạng: Thượng đẳng phúc linh thần
Đây là dạng phù điêu kết hợp chặt chẽ giữa những dòng chữ Hán với những mô típ chạm khắc hoa văn hình kỷ hà. Những dòng chữ trên đại tự, câu đối đó thông tin cho chúng ta về thái độ biết ơn đối với vị Thành Hoàng. Điều đáng nói ở đây là sự hài hoà giữa nét và chữ, giữa chữ với những mô típ trang trí xung quanh giữa màu của chữ và màu của nền. Chính sự hài hoà đó tạo cho loại phù điêu có giá trị nghệ thuật, loại nghệ thuật biểu đạt bằng chữ.
Vào ngày Xuân, các làng trong xã Hoằng Quang mở hội lớn, song có quy mô lớn nhất là lễ hội Đình Vĩnh Trị lớn nhất trong vùng. Ngày tổ chức lễ hội là ngày 22, 23, 24 tháng tư âm lịch. Trong 3 ngày lễ hội, ngày 22 làng rước kiệu và để đến 23 tế yết. Ngày 23 buổi sáng đại tế ở đình, buổi chiều làng rước kiệu quanh làng về đình làng để tế. Kiệu thần được đặt hàng đầu sau đó là kiệu thần của các làng. Làng tổ chức ăn uống vui chơi, đua thuyền trên sông Mã, đi cà kheo, thi Võ Vật ...
Thống kê hiện vật:
Hiện vật cũ: Bản Ngọc phả “Vĩnh Trị sự tích” khổ 15cm x 18cm; 01 ngai thờ thời Lê; 01 mũ thờ đường kính 0,23m; 01 bàn thờ cao 0,80m, dài 0,70m, rộng 0,55m; 01 đôi câu đối gỗ, dài 1,81m, rộng 0,25m.
Hiện vật mới: 01 bát hương sứ cao 0,25m, đường kính 0,22m; 03 bàn thờ cao 0,80m, rộng 0,70m; 06 hộp quả gỗ; 02 hạc gỗ cao 0,25m; 02 hạc sứ cao 0,25m; 04 chân nến đồng cao 0,35m; 02 khay sứ; 02 lục bình sứ cao 1,2m, đường kính 0,35m; 02 khay gỗ cao 0,20m, dài 0,40m, rộng 0,30m; 01 long ngai đặt bài vị; 02 bức đại tự rộng 0,70m, dài 1,80m; 02 giá chiêng trống đại cao 1,02m; Bộ chấp kích, tán, lộng, cờ phướn, phất trần....