Tên di sản : Đình Thọ Sơn

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : Số 178/QĐ-UBND

Giới thiệu

Cấu trúc của ngôi đình:

Ban đầu, đình có cấu trúc hình chữ Đinh (J) gồm 5 gian tiền đình và một gian hậu cung thờ các vị Thành hoàng làng đã có công lập ấp. Sau này, mới xây dựng thêm nhà giải vũ ở phía Đông trước sân đình. Hiện tại hậu cung bị phá, đất của hậu cung đã được địa phương cấp cho hộ nông dân ở, chỉ còn lại nhà tiền đình và nhà giải vũ.

Đình Thọ Sơn nằm ở thửa đất số 60/360 (theo bản đồ hành chính xã Thiệu Châu năm 2003). Trước kia, mặt bằng diện tích rộng: 650m2, như vậy, diện tích đình đã bị thu hẹp bởi chính quyền địa phương đã chuyển dịch một phần diện tích cho hộ dân ở thuộc phần đất hậu cung cũ. Từ ngoài vào trong, di tích có các công trình như sau:

Cổng đình: Trước kia cổng đình được xây dựng to bề thế gồm hai cổng phụ và một cổng chính, có hai cột nanh hai bên trên đầu trụ biểu gắn hình 2 con Nghê. Tuy nhiên, hiện tại cổng đình đã bị thay đổi hoàn toàn bằng cổng mới xây năm 1978. Cổng rộng 2,5m, hai bên trụ cổng gắn với bức tường rào cao 3,5m. Từ cổng đi vào liền kề với sân đình hình chữ nhật, có chiều dài: 18,85m; chiều rộng: 9,3m; với diện tích: 175,3m2, sân lát gạch bát cũ 20 x 20cm.

Sân đình: Có chiều rộng 18,7m, chiều dài 23,5m, nền lát gạch bát, xung quanh xây tường rào, liền kề với là đường liên xã.

Nhà tiền đình: Nhà tiền đình được đặt hướng Nam, xây trên nền cao hơn mặt sân 20cm. Xung quanh bó nền vỉa gạch, riêng bờ hiên được bó lát bằng những phiến đá xanh to chạy dài hết chiều dài hiên.

Nhà tiền đình gồm 5 gian 2 chái, nền đình có chiều dài 16,16m, chiều rộng 8,14m, diện tích 131,5m2. Trước kia, đình được dựng 4 mái, tường hậu để thoáng gian giữa nối với không gian hậu cung, không có tường hồi, hai vì hồi do trùng tu nhiều lần nên đã mất dấu vết. Hiện nay, nhân dân địa phương đã xây lại hai tường hồi thay cho hai mái đốc nhà gọi tường hồi bít đốcMái lợp ngói mũi hài, bờ nóc trước kia đắp kiểu chữ đinh, hai đốc mái đắp hình trụ diêm. Qua nhiều lần tu sửa, mái đình lợp nhiều loại ngói và thay đổi kiểu dáng của bờ giải và bờ nóc.

Nhà tiền đình có cấu trúc như sau: 5 gian 2 dĩ, kết cấu kích thước theo chiều dọc. Tính từ Đông sang Tây, tường hồi bít đốc dày 0,3m, dãy đầu hồi tường đốc Đông: 0,57m.

Gian thứ nhất rộng: 2,53m.

Gian thứ hai rộng: 2,53m.

Gian thứ ba rộng: 3,43m.

Gian thứ tư rộng: 2,53m.

Gian thứ năm rộng: 2,53m.

Dãy đầu đốc Tây dày: 1,02m.

Cấu trúc ngang thân hình gồm 4 hàng cột, hai hàng cột cái, hai hàng cột quân trước và sau.

Trước kia, phía ngoài hiên được dựng hàng cột hiên bằng đá xanh, qua nhiều lần trùng tu hàng cột hiên không còn và được thay thế bằng bức tường xây cuốn cót từ hai đốc kéo dài hết 2 gian đầu hồi và được đóng mở bằng 5 chuông cửa gỗ ở 5 gian.

Ngôi đình có tổng số: 24 cột gỗ đứng trên hệ thống chân tảng gồm: 12 cột cái và 12 cột quân.

Bộ cột là hệ thống chịu lực của toàn bộ ngôi đình, nên khi chọn gỗ, bộ cột đình được lựa chọn rất cẩn thận, trong đó cột cái được ưu tiên hàng đầu. Các cột trong ngôi đình có đường kính tỉ lệ tương ứng, các cột ở đây được tạc theo kiểu “Thượng thu hạ thách”.

Kết cấu vì kèo:

Đình có 5 gian, 6 vì kèo có kết cấu kiến trúc đăng đối, vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng với vì 4, vì 3 đối xứng với vì 4.

Vì 1 và vì 6 có kết cấu kiến trúc giống nhau theo hệ thống giá chiêng, chồng rường kẻ hiên trước, bẩy sau. Trên cùng là các con rường chồng lên nhau tỉ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mái, nó được đỡ bằng các đấu kệ vuông vắn. Đặc biệt ở vì nóc này được nghệ nhân trang trí tỉ mỉ, đầu rồng, miệng rồng ngậm chữ Thọ mũi to, trán rộng, mắt lồi, bờm tết, hai chân trước rồng được đặt lên hai bát đấu nằm ngay trên tường bụng lợn. Tất cả đều được chạm bong trông chắc chắn, khoẻ mạnh đỡ guốc thượng lương. Các con rường ở vì nóc này cả hai mái đều được trang trí cầu kỳ, trông xa như một tấm ván mê được khắc chạm tinh xảo.

Như vậy, các con rường ngoài chức năng đỡ hoành tải còn có yếu tố chính trong kết cấu để tạo nên vì kèo của ngôi nhà. Các con rường, được nghệ nhân trang trí hoa cúc cách điệu trông mềm mại và uyển chuyển.

Phía dưới câu đầu có xà lòng, xà nách, đầu hai cột cái có xà gỗ ngắn để đỡ đó là mõm nghé.

Giữa cột cái và cột quân được kết cấu kiểu chồng rường. Từ cột quân ra cột hiên là bẩy, tạo ra kết cấu liên hoàn chặt chẽ có mái cong (hiện còn dấu vết ở hai đốc đình).

Hai vì bên (vì 2 và vì 5) cân đối giống nhau, từ câu đầu lên nóc thượng lương giống hai vì giữa, cùng chồng rường giá chiêng, không soi cầu kỳ mà chỉ trang trí hình hoa, lá cúc cách điệu.

Hai vì 3 và 4 là hai vì chính được kết cấu kiến trúc giống như vì 1 và vì 6 nhưng ở đây cột cái nối với cột quân bằng xà nách. Trên xà nách có các con rường ăn mộng vào cột cái tạo thành tam giác vuông gọi là cốn. Bốn bức cốn khối tam giác chạm hình con thú, đầu rồng, phượng, lân, rùa, cá, hoa lá cúc, sen. Chúng gần như những pho tượng tròn lồi hẳn ra, chồng chéo nhiều lớp. Đây là cách chạm lộng đòi hỏi kỹ thuật cao, sự công phu và tỉ mỉ của nghệ nhân.

Điều đáng chú ý của ngôi đình này là 4 kẻ trước, bẩy sau được thể hiện những mảng điêu khắc độc đáo, đề tài trang trí mang phong cách dân gian. Nét chạm được thể hiện thanh thoát ở thân rồng, vẩy rồng, đuôi rồng, con sóc, nghê sống động.

Ở vị trí gian giữa đình được đặt bức đại tự có đề chữ “Thánh cung vạn tuế” nhưng đã bị bong khung và chữ, hiện tại chỉ còn hình trang trí chạm khắc hình hai con rồng chầu mặt nguyệt. Rồng được chạm thân mập, vảy rồng, mắt, trán, tóc rồng dựng đứng, chân rồng bám chắc, khoẻ. Đây là cách chạm lộng đòi hỏi kỹ thuật cao, tỉ mỉ, công phu của người thợ. Hai con rồng được chạm khắc từ thân cây gỗ, được đục rỗng, lồi hẳn ra, cách chạm này thật sự hấp dẫn.

Toàn bộ rui mè, hoành tại hệ thống xà, câu đầu đều làm bằng gỗ soi gờ chỉ thẳng phẳng sắc nét, mái lợp ngói mũi hài, với nhiều loại khác nhau. Bờ giải được xây vuông góc với bờ nóc chạy xuống, phía dưới trát vữa hồ, trang trí đường xây giật cấp đáy rộng để chân mái, đắp vuông tạo thành bờ guột.

Đề tài trang trí ở ngôi đình này mang chủ đề tứ linh, tứ quý đứng đầu là con rồng biểu tượng cho mây mưa, sấm chớp, cũng như biểu tượng cho quyền uy tối thượng của bậc quân vương. Con lân là linh vật huyền thoại, biểu trưng cho ước vọng hoà bình, con rùa biểu tượng cho ước vọng trường tồn, và chim phượng biểu tượng cho hạnh phúc. Ngoài ra còn có hình con sóc, con cá, cua bơi lội tung tăng trong hồ nước với những cánh hoa sen, lá sen úp ngực. Tất cả những mảng chạm khắc được trang trí ở những nơi thoáng mát, kỹ thuật chạm khắc của nghệ nhân là chạm bong tạo ra các hình trang trí nhiều lớp từ thân gỗ. Rồng trang trí rõ nét ở bức cuốn rồng đầu to, mắt lồi, trán dô, râu, bờm trông dữ tợn. Các con vật như con lân, phượng, rùa, cá,....

Nhà sắp lễ:

Trước kia, nhà sắp lễ mặt ngoảnh hướng Tây nhưng qua nhiều lần tu sửa bây giờ ngôi nhà mặt quay hướng Nam, nhà này từng được dùng làm kho hợp tác xã.

Ngôi nhà gồm 3 gian 4 vì kèo gỗ đơn giản chỉ bào trơn đóng bén, nền nhà có chiều dài 7,13m, chiều rộng 5,3m, có diện tích 37,7m2, nền nhà lát gạch bát. Nhà sắp lễ có 4 hàng cột: 2 cột cái trước sau, hai cột quân trước sau.

Ngôi nhà sắp lễ có tổng số: 10 cột gỗ đứng trên hệ thống chân tảng gồm: 4 cột cái, 6 cột quân.

Các cột xà, đều được làm bằng gỗ, không trang trí hoa văn mà chỉ bào trơn đóng bén. Nhà sắp lễ khi sửa chữa lại địa phương đã chuyển hướng nhà cửa mở theo chiều dọc.

Hiện vật trong di tích:

Hương án gỗ: 01 cái.

Khay mịch gỗ (cổ): 01 cái.

Ống hương gỗ: 02 cái.

Bát hương gốm: 01 cái.

Hình ảnh Đình Thọ Sơn

Đình Thọ Sơn

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật