Tên di sản : Đình Phú Vinh

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 2518/QĐ-UBND

Giới thiệu

Đình Phú Vinh toạ lạc trên khuôn đất cao nhất, đẹp nhất làng Phú Vinh, nhìn về hướng đông. Các cụ già trong làng thường kể rằng những trận lụt vỡ đê, xóm làng trong vùng bị chìm trong biển nước nhưng nước vẫn không đến được đình.

Nằm ở vị trí đầu làng, được xem như là không gian chuyển tiếp giữa môi trường sản xuất đồng ruộng. Với môi trường cư trú xóm làng, đồng thời càng ăn nhập vào dòng chảy của gió và nước, quy tụ sinh khí đất trời. Đình Phú Vinh là nơi hội tụ giao lưu văn hoá - xã hội bởi những công trình kiến trúc tôn giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, đình được coi là bộ mặt văn hoá của làng, có toà đại đình và hậu cung cùng với hệ thống cây trồng được nhiều đời chọn lọc.

Toàn bộ khối kiến trúc đình Phú Vinh được bố trí trên một diện tích rộng 575m2 gồm toà đại đình và hậu cung. Phía trước là sân và khoảng không gian rộng. Sự thông thoáng và cùng với gió trời làm cho cảnh quan dễ gợi nét hoài cổ.

Đình Phú Vinh nổi lên với những công trình mà địa hình và phong cảnh xung quanh là điều kiện không bao giờ rời nhau đối với kiến trúc. Cảnh sắc thiên nhiên được khai thác, uốn nắn và bổ sung làm toát ra đặc điểm truyền thống trong kiến trúc cổ và sự hài hoà địa hình, phong cảnh. Vị trí phía Nam là xóm làng đồng ruộng, phía Bắc con sông Trà Giang án ngữ, phía Đông cho đến việc cấu trúc đình. Với kiểu nhà có 5 gian lẻ cho thấy ý tưởng mà kiến trúc sư kiêm thầy địa lý từ nhiều thế kỷ trước đã lựa chọn cho việc dựng đình.

Toà đình với 5 gian dài 15,6m, rộng 7,5m gồm 14 cột, 6 vì bít đốc. Ba gian hậu cung rộng 4,2m, dài 6,7m được kiến trúc bằng gỗ lim, trên cơ sở một bộ khung hình hộp mang đặc điểm chung của kiến trúc truyền thống gỗ Việt Nam.

Thích ứng với điều kiện khí hậu của đồng bằng ven biển, đình Phú Vinh có một lối kiến trúc vừa truyền thống vừa bền vững. Một bộ khung gỗ với 4 vì kèo để lộ ra phía trước một hàng hiên rộng, thông qua 2 chuồng cửa, mỗi chuồng 2 cánh, cao 2,7m được đóng mở bởi một khung ngạch gỗ có then, 2 bảy có cột đỡ của 2 vì giữa đỡ tàu mái trước tạo ra một không gian hiên rộng 1,0m. Thời gian gần đây mặt trước các gian được xây bịt không có hiên để tăng thêm diện tích trong nội thất trong đình. Kẻ bẩy ăn mộng vào đầu cột con tăng cường cho phần chắc chắn ở điểm nối giữa quá giang và đầu cột con. Xà đai ở đầu cột con liên kết chặt chẽ 2 vì kèo của một gian. Các điểm nối các cột con với nhau làm chức năng liên kết như các xà, hoàn chỉnh một bộ khung gỗ hình hộp.

Trong quá khứ, hậu cung của đình Phú Vinh bị hư hại, sụp đổ. Năm 1998, nhân dân địa phương đã đóng góp dựng lại trên nền móng cũ. Hậu cung có diện tích 3,25m x 5,2m, gồm 2 mặt tường hông, tường hậu, xây gạch thực, mái chảy với 2 vì kèo suốt, quá giang gối lên 2 mặt tường hông, mặt trước hậu cung thông với gian chính toà đại đình.

Đồ thờ tại đình đã làm thiêng hoá trong cấu trúc thờ tự là những sản phẩm văn hoá vật thể chứa đựng ước vọng truyền đời của con người, qua nó như qua thần linh để cầu phúc, phản ánh tâm thức của người dân ở đây. Nơi thiêng nhất là Hậu cung là nơi thần ngự. Gian chính là ban thờ thần Hoa Dung Diên Nương là cỗ ngai có bài ghi dòng chữ về tước vị thần được ghi trong sắc phong “Dực bảo Trung hưng linh phù tôn thần”. Bàn thờ được coi là cõi linh của thần, từ ngoài vào tạo sự linh thiêng là bộ bát bửu, mỗi thứ bát bửu được sơn son thếp vàng đặt hai bên trước bàn thờ, tiếp đó là đôi hạc sứ đặt trên lưng rùa. Hạc là biểu tượng dương, rùa là âm, âm dương hoà hợp thể hiện sự trường tồn vĩnh cửu. Trước hương án là bộ chấp kích, xếp bên cạnh bộ chấp kích là bộ chiêng, trống đại được đỡ trên giá gỗ mục đích phục vụ rước xách.

Đồ tự khí bày trên bàn thờ gồm, lư hương đồng, chân nến gỗ, độc bình cắm hoa, mâm bồng, khay gỗ, cái kỷ hay còn gọi là Tam Sơn đặt bộ đài gỗ 3 chiếc để chén đựng rượu, hai bên thấp hơn đặt đĩa trầu cau, một bên đặt bát nước. Các đồ gỗ ở đây như ngai thờ, sơn son thếp vàng. Màu sắc của sơn có ý nghĩa khái quát cao, đồng thời thể hiện được những chi tiết cụ thể, rất phù hợp với những biểu đạt và tâm lý tôn giáo như tạo ra cho đồ thờ ở đây tăng thêm giá trị thẩm mỹ. Những đồ tế tự trên được quan niệm: bát hương biểu hiện là thổ, cây nến biểu hiện là hoả, lọ cắm hoa biểu hiện là mộc, mâm ngũ quả biểu hiện là kim và đài rượu biểu hiện là thuỷ.

Như vậy, thiết chế bàn thờ Thần Hoàng là sự linh thiêng, thể hiện được triết lý phương đông đó là âm dương ngũ hành, yếu tố tạo nên vạn vật cũng như những lễ vật cũng thần trong các kỳ tế lễ cũng biểu hiện triết lý trên.

Phía bên trái ban thờ Thành Hoàng là ban thờ đặt pho tượng bằng gỗ cao 0,65m được son thiếp, chân dung của Trạng nguyên Lê Nại, tượng hình quan văn thiết triều, tay phải úp xuống lòng đùi, tay trái cầm lệnh chỉ. Trên ban thờ có nhiều vật dụng tế tự như chân nến, hộp quả, lư đồng, khay gỗ, bát hương

Thống kê hiện vật:

Hiện vật cũ:

01 sắc phong năm Khải Định thứ 9 (1924).

01 ngai thờ cao 0,75m, rộng 0,5m

01 bộ bát bửu.

01 khánh thờ cao 0,57m, rộng 0,43m.

01 bản chúc văn gỗ cao 0,43m, rộng 0,30m.

02 ống hương gỗ cao 0,28m, đường kính 0,05m.

02 đài gỗ cao 0,21m, đường kính 0,12m.

01 khay mịch cao 0,15m, dài 0,35m, rộng 0,15m.

01 bát hương sứ cao 0,25m, đường kính 0,25m.

Hiện vật mới:

02 câu đối cao 0,82m, rộng 0,31m.

02 bức đại từ dài 1,2m, rộng 0,75m.

01 bộ chấp kích.

01 trống cái.

02 hạc sứ thờ cao 0,25m.

02 bình sứ cao 1,2m, đường kính 0,50m.

01 lư đồng cao 0,38m, đường kính 0,25m.

02 chân nến đồng cao 0,42m.

Chiêng, tán lọng, phất trần, chấp kính.

Loại di tích:

Đình Phú Vinh là di tích lịch sử.

Đình Phú Vinh

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật