Tên di sản : Đình Làng Vực
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 2998/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đình làng Vực nằm ở trung tâm làng, quay mặt về hướng Nam trên một thế đất rồng chầu hổ phục, tam thủy giao nhau, nước ở ba hướng đông chảy lên, tây chảy xuống, bắc chảy lại với ý nghĩa thành hoàng ngự giữa làng thôn, xã, đã tạo nên một làng Vực cảnh quan tụ thủy. Đình nằm ngay ngã ba con đường liên xã, liên thôn. Từ nam đến bắc, từ đông đến tây đều thông với đường Tỉnh lộ 217 và đường đê Sông Mã. Với vị trí ấy, địa điểm xây dựng ở làng Vực thôn không những ở vị trí giao thông thuận lợi mà còn là nơi có cảnh quan thiên nhiên hữu tình.
Theo lời kể của các bậc cao niên ở địa phương, ngôi đình làng Vực hiện nay có xuất xứ từ một ngôi đình cổ hơn được lợp tranh và xây dựng từ lâu, không ai còn nhớ rõ. Đến đời vua Khải Định (triều Nguyễn) do đời sống làng khá giả, nhu cầu tín ngưỡng trong nhân dân ngày càng cao, dân làng Vực mới xây dựng ngôi đình như hiện nay.
Hiện tại không gian đình được phân bố gồm: Cổng, sân, đình, nằm trên một khu đất cao ráo, thoáng mát. Phía Nam giáp đường liên xã; phía Bắc giáp thửa số 584; phía Đông giáp thửa số 889; phía Tây giáp Ngõ xóm.
Từ ngoài vào trong di tích có các công trình sau:
Cổng đình: Trước kia cổng đình cũng xây tại địa điểm hiện nay nhưng hai cây cột nanh cao to bề thế hơn. Hiện tại cổng đình đã bị thay đổi hoàn toàn bằng một cổng mới với kiểu xây hai cột nanh có kích thước cao: 3,5m; rộng: 2,3m; chân đế 85m x 85m, 70cm x 70cm, 50m x 50m đắp gờ chỉ xây giật cấp; 2 cánh cửa sắt đóng mở thuận lợi.
Sân đình: Có chiều rộng 12,3m; chiều dài 13,50m, nền lát gạch bát đỏ 25cm x 25cm, trước đây ở phía tây sân đình có nhà sắp lễ 3 gian, hiện nay không còn.
Nhà Đại đình: Nhà Đại đình dựng theo hướng Nam, xây trên nền cao hơn mặt sân là 20cm, xung quanh bó vỉa gạch. Riêng bờ hiên được lát bằng những phiến đá xanh to chạy hết chiều dài.
Nhà đại đình được cấu tạo 3 gian, 2 dây, chiều dài nền đình là 11,48m; rộng 7,06m với diện tích 81,04m2.
Dĩ đốc đông: 1,80m;
Gian thứ nhất rộng: 236m;
Gian giữa: 3,02m;
Gian thứ ba: 2,50m;
Dĩ đốc tây: 1,80m.
Cấu trúc ngang thân đình gồm 5 hàng chân cột, hai hàng cột cái trước, sau, hai hàng cột quân trước, sau, một hàng cột hiên đá.
Từ giọt gianh (mái ngói) đến cột hiên trước là: 0,55m;
Từ tim cột hiên đến tim cột quân trước là 1,13m;
Từ tim cột quân trước đến tim cột cái trước là: 1,30m;
Từ tim cột quân trước đến tim một cái sau là: 2,55m;
Từ tim cột cái sau đến tim cột quân sau là: 1,16m;
Cột quân sau đến tường hậu là: 0,92m;
Cột cái có chiều cao: 3,68m, đường kính cột: 0,42m;
Cột quân có chiều cao: 2,70m, đường kính cột: 0,37m;
Kích thước chân tảng cột cái: 46cm x 46cm;
Kích thước chân tảng cột quân: 42cm x 42cm;
Hệ thống cột hiên bằng đá vuông: 17cm x 17cm, cao: 1,83m;
Chân đế cao 24m; rộng: 29cm x 29cm.
Như vậy ngôi đình có tổng số 20 cột; 16 cột gỗ và 4 cột đá đứng trên hệ thống chân tảng.
Các cột trong ngôi đình này có tỉ lệ đường kính tương ứng với hình dáng của cột cũng có quy định rõ ràng. Các cột, xà, câu đầu có sự tương ứng với nhau giữa xà, cột hợp lý và hài hoà.
Kết cấu vì kèo:
Đình gồm 3 gian chính và 2 gian xép: Trước đây 2 gian xép này địa phương thang ván lại dùng để đồ cúng tế, nhưng những năm gần đây sử dụng làm nhà văn hóa thôn nên để chứa đựng các đồ lễ nên hiện tại.
Đình có 4 vì kèo gỗ đối xứng nhau: Gian thứ nhất đối xứng gian thứ 3, vì 1 đối xứng vì 4, vì 2 đối xứng vì 3, hai vì hồi gác 2 đầu đốc.
Kết cấu vì kèo (vì 1, vì 4): giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết, chủ yếu là theo kiểu “chồng rường, kẻ bẩy”. Ở một bộ vì liên kết chính bắt đầu từ hai cột cái: hai đầu cột cái được bổ họng cột để mộng câu đầu ăn vào cột cái (ở đây câu đầu làm nhiệm vụ như một quá giang). Trên thân câu đầu là hai trụ đứng trên đấu vuông, trên thân hai trụ đứng này là các con rường ngang cụt ăn mộng vào trụ đứng nằm trên các đấu vuông có nhiệm vụ đỡ các hoành tải ở cả mái trước và mái sau. Để nối hai trụ đứng này với nhau là một con rường dài nằm trên đầu hai trụ đứng nó làm nhiệm vụ đỡ cả mái trước, sau, (còn gọi là con rường bụng lợn), phía trên cùng là con rường nối dọc đỡ bát đấu, đỡ thượng lương.
Từ dưới câu đầu trở xuống là hệ thống thượng chồng rường, hậu kẻ chuyền được ăn mộng vào đầu cột cái đỡ câu đầu, đuôi kẻ vươn ra nằm trên xà đùi, ăn mộng vào xà đùi và một cái chạy vươn ra ăn mộng vào đầu cột quân. Để đỡ xà đùi này là kẻ bẩy chạy ra gác đầu lên tường hậu ở mái sau và cột hiên ở mái trước. Trên lưng kẻ chuyền, kẻ bẩy là các lá dong được đục lỗ tròn cho hoành tải chạy qua làm nhiệm vụ đỡ mái.
Kết cấu vì 2 và vì 3: theo kiểu giá chiêng, kẻ chuyền. Hai vì này được cấu trúc gồm các hệ thống câu đầu nối với hai đầu cột cái, xà lòng ăn mộng qua thân cột cái (phía trước, sau), và ăn mộng vào đầu hai cột quân ở mái trước và mái sau. Hệ thống kẻ bẩy mái trước, mái sau ăn mộng vào vào đầu cột quân, mõm kẻ và nghé bẩy nằm dưới xà lòng. Để đỡ hoành tải theo thứ tự từ dưới lên trên, lá dong nằm trên các đầu kẻ bẩy, các kẻ này được chuyền lên đến vị trí câu đầu.
Để mở rộng lòng công trình, cấu trúc 2 gian xép là hệ thống các hoành tải được chạy từ phía trước vì kèo, hoành gác lên vì tường hai hồi gồm hai trụ đứng đỡ câu đầu và hai hàng kèo gỗ đỡ hệ thống mái.