Tên di sản : Đình Dương Thanh

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di sản : Di tích kiến trúc nghệ thuật

Sô quyết định : Số 2529/QĐ-UBND

Giới thiệu

Trước đây, đình Dương Thanh tọa lạc trên một khuôn viên khá rộng, đất đai bằng phẳng, quay mặt hướng Nam. Là ngôi đình bằng gỗ, được chạm trổ những mảng điêu khắc nghệ thuật rất đẹp. Trong đình lại có nhiều hiện vật quý như: Ba chiếc kiệu (kiệu Long đình, kiệu hoa sen, kiệu bình) bằng gỗ vàng tâm, được sơn son thiếp vàng; một đôi hạc lớn được sơn trắng, hai bộ bát bửu; Đại tự, câu đối,...Song do khí hậu nhiệt đới ẩm và chiến tranh tàn phá nên ngôi đình cũ đã bị hư hại nhiều. Vào những năm giữa thế kỷ XX, nhân dân làng Dương Thanh và bà con xa gần tụ họp về đây, chung tay góp sức trùng tu xây dựng lại ngôi đình như hiện nay. Tuy nhiên, do những biến cố thăng trầm của lịch sử nên ngôi đình cũng không còn được nguyên vẹn như lúc mới xây dựng, những di vật của tiên nhân bị mai một, thất tán nhiều.

Ngôi đình hiện nay cũng được xây dựng trên nền móng của đình cũ vào năm Bảo Đại thứ 18 (1943), nằm ở vị trí đầu làng, được xem như là không gian chuyển tiếp giữa môi trường sản xuất đồng ruộng với môi trường cư trú xóm lang, đồng thời cũng ăn nhập vào dòng chảy của gió và nước, quy tụ sinh khí của đất trời.

Đến tham quan khu di tích theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình: Cổng, Sân và Đình.

Cổng: mới được xây dựng, có chiều cao 2,5m; chiều rộng 2,1m; có hai cánh cửa sắt có thể đóng mở thuận tiện.

Sân: Dài 14,1m, rộng 14,45m; được lát gạch bát (25 x 25 cm) theo lối chữ công (I). Giữa sân đình có bức bình phong hình cuốn thư: có chiều cao 1,9m; chiều rộng 3,1m, không có hoa văn và phù điêu.

Đình: Ngôi đình hiện nay là một công trình bao gồm một tòa Đại đình chạy ngang và nối từ gian thứ 2 và thứ 4 của tòa đại đình (tiền đình) ra trung đình là hai giải vũ, tiếp nối với trung đình là một tòa hậu cung chạy dọc. Có thể trước đây nó là một mái chung, kiểu chuôi vồ, nhưng sau này, khi tôn tạo lại mới được tách biệt ra và làm thành từng hạng mục riêng nhưng nó lại được nối tiếp với nhau, vì thế có thể đi từ Tòa đại đình vào Hậu cung thông qua giải vũ vào Trung đường rồi đến Hậu cung mà không bị mưa nắng.

Tòa đại đình: mới được làm lại lần cuối vào năm Bảo Đại thứ 18 (1943). Đây là một tòa nhà gồm 5 gian, hai chái với 6 vì kèo, có chiều dài 14,45m; rộng là 6,3m (trong đó hiên rộng 1,7m); chiều cao từ nền đến thượng lương là 4,5m. Kiến trúc đình có 3 hàng chân cột bằng đá trắng nguyên khối, 2 hàng cột cái trong nhà và hàng cột hiên ở ngoài để nâng mái. Cột đá được làm vuông có chém cạnh, trên chất liệu đá trắng được chạm nổi các vân có khoảng cách đều nhau thể hiện sự cầu kỳ, tỉ mỉ của các nghệ nhân nghề đá; mỗi cột có chiều cao 2,4m, mỗi cạnh 22cm, chân tảng cao 55cm, mỗi cạnh 37cm, hình cổ bồng. Liên kết giữa cột cái phía sau với cột cái phía trước là vì kèo kẻ suốt có giá chiêng bằng gỗ màu đen. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa chất liệu đá và gỗ trông đơn giản nhưng rất chắc chắn, cách phối màu giữa đen (phần gỗ ở vì kèo phía trên) và trắng (phần cột phía dưới) tạo cho nên một không gian nổi bật nhưng lại rất sáng thoáng. Liên kết giữa cột cái với cột hiên và tường hậu là các xà hạ, có nhiệm vụ đỡ các bức cốn. Bức cốn được chạm khắc cầu kỳ theo cụm đề tài Tứ linh. Mái được lợp bằng ngói mũi. Trên bờ nóc của Đại đình, người ta dùng các ngói máng cùng với vôi vữa để đắp đậy bờ để nước mưa trôi xuống mái nhằm bảo quản cho công trình không bị mưa nắng làm hư hại; còn trên bờ giải được đắp bằng vôi vữa theo lối giả sơn, trên đỉnh bờ giải được đắp trụ vuông có các đường gờ chỉ.

Tại gian giữa đặt một hương án, trên đó có 3 cỗ ngai và ba bát hương mới. Bức cốn chạm khắc rồng, được đặt ở các xà nối với hiên của vì kèo thứ 3 và thứ 4 (tính từ trái qua phải): Rồng ở đây được chạm khắc với miệng sói, tai thú, trán lạc đà (ngắn gồ), sừng nai, mình rắn, vẩy cá chép, chân cá sấu, móng chim ưng, đuôi cuộn xoắn, khúc đuôi duỗi về phía sau. Nhìn chung, các mảng chạm khắc cầu kỳ, khái quát, mang giá trị nghệ thuật cao. Hình tượng rồng ở đình làng phản ánh ước vọng cầu cho mùa màng bội thu. Bởi theo quan điểm của người Việt cho rồng là chủ nguồn nước, là biểu tượng của mây mưa sấm chớp, mang lại mưa thuận gió hòa cho cuộc sống tốt tươi.

Bức cốn chạm Phượng - Hạc được đặt ở các xà nối với tường hậu của vì kèo thứ 3 và thứ 4 (tính từ trái qua phải): Phượng - Hạc gần gũi với con cò, mang nhiều nét dân dã. Trong khi tạo hình, con vật linh này cũng được các nghệ nhân điểm xuyết những mảng mây cuốn cong, lượn sóng, miệng ngậm dải lụa buộc bút lông và cuốn thư. Tóm lại, con vật có cánh ở đình Dương Thanh nói riêng cũng như ở các di tích khác gắn với tôn giáo người Việt, thường là biểu tượng của tầng trên, đại diện cho sự thanh cao, cho sự xuất hiện của thánh nhân quân tử, cho sự vần vũ của không gian và thời gian. Bởi trong quan niệm cổ truyền thì đầu Phượng đội công lý, mắt là Mặt Trời – Mặt Trăng, lưng cõng Bầu trời, đuôi là Tinh tú, cánh là Gió, lông là Cây, chân là Đất. Những con Hạc hay Phượng ngậm dải lụa buộc bút lông và cuốn thư mong muốn con em trong làng học hành thành danh, trở thành những người có cốt cách Thánh nhân quân tử.

Bức cốn chạm lân, được đặt ở các xà nối với tường hậu của vì kèo thứ 2 và vì kèo thứ 5 của tường hiên (tính từ trái qua phải); Đây là loài thú 4 chân, được chạm khắc bằng những vân xoắn và trở thành con vật của tầng trên, mình lẫn giống như mình sói, hai chân trước khụy, đuôi uốn cong. Lân được xem là linh vật tượng trưng cho sức mạnh tầng trên, của trí tuệ và sự trong sáng.

Bức cốn chạm khắc Long - Mã, được đặt ở các xà nối với hiên của vì kèo thứ 2 (tính từ trái qua phải): Đây là bức chạm khắc ngựa hóa rồng, bởi vì đầu rồng, mình ngựa được chạm vây như vây cá chép, đuôi đang duỗi ra sau như đang bay lên, trên lưng đeo mảng chạm khắc chữ Thọ. Con vật này biểu tượng cho không gian và thời gian, cho ý chí nam nhi, cho sự phi thường và trường thọ.

Nhà dải vũ: Từ gian thứ 2 và thứ 4 của tòa Đại đình vào Trung đình được nối với nhau bằng hai dải vũ; dải vũ có chiều dài 3,7m; chiều rộng 1,6m, cửa vào hai dải vũ thông với gian thứ hai và thứ tư của Đại Đình, mái của dải vũ thấp hơn mái của Đại đình và Trung đình nhưng cũng đủ cho chúng ta đi từ Đại đình vào Trung đình không bị mưa nắng.

Khoảng trống từ Đại đình vào Trung đình với hai dải vũ tạo thành sân Thiên tỉnh để đón ánh sáng và gió trời, song nó lại được che mát bởi bốn bên có mái nhà và khi trời lạnh cũng có thể ra sân sưởi nắng ấm vì gió không quá lớn, nó cũng tạo cho nhà Trung đình và hai giải vũ vừa sáng, lại vừa có khí trời điều hoà âm dương.

Trung đình: là một ngôi nhà ba gian, có chiều dài 7,5m; chiều rộng 3,8m, trần được cuốn vòm bê tông, tất cả được xây dựng bằng gạch và vôi vữa. Trung đình có ba cửa để trống, hai cửa bên (ở gian thứ 1 và thứ 3) được nối thông với dải vũ, mỗi cửa cao 1,7m, rộng 90cm, cửa giữa cao 2,15m, rộng 1,5m. Mái được làm thành hai tầng mái, ngăn cách giữa hai tầng mái là các khuông chữ nhật, bên trong có trang trí hoa văn, chữ Thọ. Mái lợp bằng ngói mũi, trên bờ nóc đắp nổi phù điêu hình rồng, bờ giải được đắp các đường gờ chỉ, trên đỉnh bờ giải đắp hình trụ, phía dưới được đắp nổi chữ Thọ. Bên trong nhà Trung đình được bài trí ba hương án ở ba gian, mỗi hương án có một cỗ ngai và một bát hương.

Hậu cung: cũng được làm bằng vôi vữa, kiến trúc cuốn vòm, kết cấu thành một gian, chạy dài theo chiều dọc; hậu cung có chiều dài 5,6m; rộng 3,6m. Mái cũng được lợp bằng ngói mũi; trên bờ nóc cũng được đắp bằng ngói máng và vôi vữa tạo thành đậy bờ để nước mưa trôi xuống mái để bảo quản cho công trình không bị mưa nắng làm hư hại; còn trên bờ giải được đắp bằng vôi vữa theo lối giả sơn.

Bên trong hậu cung được bố trí thành một ban thờ và một hương án, ban thờ trong cùng được bài trí thành 3 lớp cao dần từ ngoài vào, trên cùng là 3 cỗ ngai, tiếp đến là 3 bát hương, dưới cùng là bát hương công đồng, hương án bên ngoài là một bàn thờ trên đó có một cỗ ngai và một bát hương. Tóm lại, đình Dương Thanh là ngôi đình còn tương đối nguyên vẹn, cấu kiện kiến trúc của tòa Đại đình được kết hợp bằng gỗ lim và đá nguyên khối vì thế đình vừa mang những nét chung lại vừa mang đặc điểm khác biệt của nền kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Ở tòa Đại Đình còn lưu giữ được những bức cốn được chạm khắc theo cụm đề tài tứ linh được chạm khắc tinh xảo, khéo léo đến từng chi tiết nhỏ nhất, mang giá trị nghệ thuật cao. Chính vì thế, dẫu gần một thế kỷ nhuốm màu thời gian và mưa nắng cũng không làm phai mờ dấu vết tinh hoa mà các nghệ nhân xưa đã để lại. Toàn bộ công trình đình quay hướng nam nhìn ra con kênh ven đường, phía trước là ao đình, sau lưng tựa vào dãy núi Sơn Trang. Trước mặt nhìn về nguồn nước, nơi khởi thuỷ của cuộc sống con người, nơi phát sinh ra sự sống, mong muốn làm ăn phát đạt, giàu có như thuỷ triều lên, sau lưng lại tựa vào thế mái vững chãi, thế hổ phục, mong muốn cuộc sống an lành sung túc.

Hiện vật trong di tích:

Hiện vật cổ còn lại:

02 chóe sứ; 02 bát hương đá; 01 bát hương sứ; 02 rùa đá; 02 cây nến đồng; 03 đài đồng, 06 chân tảng bằng đá loại to, 15 chân tảng đá loại vừa.

Hiện vật mới đưa vào:

03 hương án gỗ; 11 bát hương sứ; 10 cỗ ngai bằng gỗ; 04 hạc thờ bằng gỗ loại lớn; 10 con hạc gỗ nhỏ; 02 cây nến đồng; 10 cây nến gỗ.

Đình Dương Thanh

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật