Tên di sản : Đình Đồng Minh
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : 345/QĐ-UBND
Giới thiệu
Vào những năm 1960, thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp đình được sử dụng vào mục đích hội họp, trường học, làm kho chứa thóc của làng. Vì thế toàn bộ mặt trước của đình xây bịt và mở 3 chuông cửa ra vào. Việc sử dụng này đã làm thay đổi ít nhiều diện mạo phía trước của ngôi đình. Tuy nhiên, về bộ khung gỗ của đình vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn đến nay cả về kiến trúc và điêu khắc.
Về cảnh quan và quy mô cấu trúc:
Đình Đồng Minh có địa thế cảnh quan đẹp, nhìn về hướng đông nam, có kiến trúc hình chữ nhất, với giá trị độc đáo, là nơi thờ Thành Hoàng làng. Vì thế, nó gắn với không gian mở gần với thiên nhiên, với đời thường. Việc thờ Thành Hoàng làng là một trong những đặc điểm của tín ngưỡng người Việt, đồng thời sự phân bố không gian trong ngôi đình là biểu hiện vừa mang tính tôn giáo, phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Về không gian di tích, đình Đồng Minh hiện có các công trình sau:
Cổng đình: Trước kia cổng đình được xây dựng to bề thế, gồm hai cổng phụ và một cổng chính, hai cột nanh hai bên trên đầu trụ biểu gắn hai con nghê. Tuy nhiên, hiện tại cổng đình đã bị thay đổi hoàn toàn bằng cổng kiểu mới cao 2,5m, rộng 2,3m, trên có mái che, xung quanh trụ trát vữa.
Sân đình: Trước kia lát gạch bát 0,20m x 0,20m. Vào những năm 1960, dân làng làm sân kho hợp tác xã nên nền sân bị hỏng và láng lại bằng xi măng. Sân có chiều dài 22,5m, rộng 14,5m.
Nhà đại đình: Nhà đại đình dựng theo hướng Đông Nam, trên nền cao hơn mặt sân là 0,20m, bờ hiên xây khép kín, gian 3, trổ cửa sổ, cửa rộng 0,90m, cao 1,35m, gian 1, 2 mở 2 cửa chính, cửa cao 1,96m, rộng 1,1m, gồm 2 cánh cửa gỗ pano. Phía tường hậu trổ 2 cửa sổ ở gian 1, 3. Cửa cao 1,96m, rộng 1,1m gồm 2 cánh cửa gỗ pano. Phía tường hậu trổ 2 cửa sổ ở gian 1, 3. Cửa cao 1,17m, rộng 0,93m.
Kích thước của các bước gian được thể hiện như sau:
Dĩ đầu đốc tây: 2,06m.
Gian thứ nhất có chiều rộng: 2,59m.
Gian thứ hai có chiều rộng: 2,95m.
Gian thứ ba có chiều rộng: 2,64m.
Dĩ đầu đốc công: 2,06m.
Toàn bộ đình có 16 cột (8 cột cái và 8 cột quân). Cột cái cao 4,07m, có chu vi 1,06m; cột quân cao 3,02m, cột quân có chu vi 0,88m. Chiều cao của ngôi đình từ thượng lương xuống nền nhà cao 4,94m.
Khoảng cách từ giọt mái tranh đến hiên là 0,70m.
Khoảng cách từ tim cột quân đến cột cái trước là 1,55m.
Khoảng cách từ cột cái trước đến cột cái sau là 2,67m.
Khoảng cách từ cột cái sau đến cột quân sau là 1,55m.
Kích thước chân tảng cột cái 0,48m x 0,48m, kích thước chân tảng cột quân 0,40m x 0,40m. Về bố cục kiến trúc của các vì kèo được cấu tạo bởi 3 gian 4 vì kèo gỗ, mỗi vì có 4 cột, hai hàng cột cái trước, sau, hai hàng cột quân trước, sau. Các vì có kết cấu cân đối và đối xứng nhau qua gian giữa, các vì kèo liên kết với nhau theo kiểu giá chiêng, chồng rường, kẻ hiên trước, bẩy sau, vì 1 đối xứng với vì 4, vì 2 đối xứng với vì 3. Tất cả các vì kèo đều liên kết với nhau theo một kiểu cấu trúc bộ khung gỗ chắc chắn.
Kết cấu vì kèo (vì 2, 3) giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết, chủ yếu kiến trúc theo kiểu “giá chiêng, chồng rường, kẻ hiên trước, bẩy sau”. Ở một bộ vì liên kết chính bắt đầu từ hai cột cái: hai đầu cột này được bổ mộng câu đầu ăn vào cột cái (ở đây câu đầu có nhiệm vụ như một quá giang). Trên thân câu đầu là hai trụ đứng trên đấu vuông, trên thân hai trụ đ���ng này là các con rường ngang cụt ăn mộng vào hai trụ đứng nằm trên các đấu vuông có nhiệm vụ đỡ hoành tải ở mái trước và mái sau gọi là vì nóc. Nối hai trụ đứng này với nhau là một con rường dài nằm trên đầu hai trụ đứng, có nhiệm vụ đỡ cả mái trước, mái sau (còn gọi là rường bụng lợn), phía trên cùng là con rường dọc đỡ bát đấu đỡ thượng lương.
Từ dưới câu đầu trở xuống là hệ thống chồng rường, kẻ hiện trước, bẩy sau. Kẻ được ăn mộng vào đầu cột quân để đỡ xà nách. Xà nách ăn mộng vào 1/3 thân cột cái đỡ trụ, các con rường xếp chồng lên nhau qua đấu kế tạo thành hình tam giác vuông gọi là con đỡ hệ thống mái. Để đỡ xà nách này là kẻ bẩy chạy ra tường hậu ở mái sau và tường hiện ở mái trước. Trên lưng các kẻ này là hệ thống lá dong đục lỗ tròn để hoành tải chạy qua làm nhiệm vụ đỡ mái.
Kết cấu (vì 1, 4) là hai vì hồi, được cấu tạo giống nhau hoàn toàn về kiểu liên kết “giá chiêng, chồng rường, kẻ hiên” đặc điểm của vì kèo này trốn xà lòng, mục đích tạo thế cao thoáng lòng nhà.
Từ ngoài vào cột quân là kẻ hiên, nối với cột quân trực tiếp làm nhiệm vụ để đỡ các hoành tải ở phía trên, không có cột hiên, kẻ hiên trực tiếp đứng trên tường đỡ mái hiên ở phía trước. Phần nối giữa cột cái với cột quân là xà nách, đầu xà nách ăn mộng vào 1/3 thân cột cái và đầu cột quân đỡ trụ, các con rường và hệ thống mái. Từ cột cái đến thượng lương mái trước, sau được kết cấu theo kiểu con so chồng rường. Trên cùng là guốc đỡ thượng lương.
Từ dưới câu đầu trở xuống là hệ thống con so chồng rường, kẻ hiên trước, bẩy sau. Kẻ hiên ăn mộng vào đầu cột quân trước đỡ xà nách, xà nách ăn mộng vào 1/3 thân cột cái trước đỡ trụ, các con rường ăn mộng vào cột cái tạo thành tam giác vuông gọi là cốn. Bức cốn hình khối tam giác đỡ hệ thống mái. Để đỡ xà nách này là kẻ bẩy chạy ra đứng trên tường hậu đỡ mái sau và tường hiện đỡ mái trước.
Toàn bộ rui, mè, hoành tải được làm bằng gỗ tứ thiết, xà thượng, xà hạ, xà thế hoành được làm bằng gỗ hình dáng vuông vắn soi gờ chỉ. Bộ mái lợp ngói mũi hài; bờ dải xây vuông góc với bờ nóc chảy xuống phía dưới, trát vữa hồ trang trí đường giật cấp để chặn mái, đắp vuông tạo thành bờ guột từ nóc đến mái hiên.
Nhìn chung, bộ khung gỗ của đình được cấu trúc bởi các hệ thống cột cái, cột quân, kẻ hiên, bẩy sau tạo nên một kết cấu vững chắc. Kết cấu kiến trúc được tuân theo một quy luật đăng đối giữa các vì với nhau tạo nên một sự liên kết của toàn bộ công trình có tác dụng chịu lực (lực nén, trọng lực của mái, lực giằng để liên kết các bộ phận của khung nhà).
Nghệ thuật chạm khắc:
Ngoài kết cấu kiến trúc thì nghệ thuật điêu khắc là những yếu tố không thể thiếu được để đưa ngôi đình lên tầm giá trị nghệ thuật cao, phản ánh được tính chất và tư tưởng chủ đạo của ngôi đình.
Đình Đồng Minh được nghệ nhân chạm khắc các mảng trang trí ở mặt tiền của ngôi đình như hệ thống kẻ hiên, các bức cốn, thanh và hạ ở gian (2, 3), còn bẩy sau và các con rường ở bốn vì của mái sau thì chạm khắc các hoa văn rất đơn giản. Tất cả 1/2 của 4 vì ở mái trước đều được chạm khắc cầu kỳ được nghệ nhân thể hiện như sau:
Vì thứ nhất (tính từ đông sang tây): Bức cốn mê bề mặt thân và nách cũng như bề mặt các con rường chạm hình phượng hóa, ngựa hóa, lá cúc cách điệu, cánh chim sóc; hình cây hóa chim phượng, rùa đội lá sen, khoảng cách giữa hai con lân chầu là hình chim phượng xòe cánh rộng. Kẻ hiên chạm cá chép hóa rồng, má ngoài chạm vân mây hình sóng nước cách điệu.
Vì thứ hai: Trên bề mặt và nách chạm đậm hình lá cúc cách điệu, đầu các con rường chạm hình lá cúc, tượng hươu, nghê, kẻ hiên một mặt chạm nghê hóa, lá sen úp ngược trùm lên thân con rùa, một mặt chạm hình vân mây sóng nước.
Mặt ngoài bức chạm trên thân và nách chạm hình lá cúc cách điệu, đầu xà nách chạm cá hóa long, trên các đầu con rường chạm hình lá cúc, chim phượng hóa, mõm kẻ chạm hình con nghê, sóc, lá cúc cách điệu.
Vì thứ ba: Chạm khắc giống vì 2, kẻ hiên mặt kẻ chạm hình lá, bông sen, đầu rồng, lá cúc cách điệu, một mặt chạm hình vân mây sóng nước.
Vì thứ tư: Ở bức cốn mê chạm hình đầu rồng, lân, cá chép, ngựa hóa thạch sùng, chim sóc đang đứng lên cành trúc, đầu kẻ một mặt chạm hình cá chép hóa, lá sen úp ngược.
Mảng chạm kênh “Lưỡng long chầu nguyệt” ở xà hạ giữa hai vì 2 và 3, phía trước gian giữa. Hình tượng rồng chạm khắc ở xà phong cách chạm có khối nổi cao được chạm khắc từ thân cây gỗ, được đục rỗng, được gán ghép kết cấu kiến trúc toàn bộ bức chạm kiểu này nổi cao phủ kín cả một diện tích của bức phù điêu lối chạm này thật hấp dẫn cho ta thấy được cái tinh xảo của mảng chạm, đường nét mềm mại, hình rồng vờn mây, thân rồng uốn lượn rất tinh tế trong mây, thể hiện rõ trí tuệ sáng tạo của người nghệ nhân dân gian.
Đình Đồng Minh có những nét đặc trưng về điêu khắc gỗ. Trước hết là không gian kiến trúc của đình phong phú để nghệ nhân có thể thể hiện được đề tài trang trí phủ lên các cấu kiện gỗ.
Hệ thống chạm lộng, chạm bong, nhiều tầng, nhiều lớp, với nhiều sáng tạo về chủ đề kết hợp với sự cường điệu về khối, hình nét, làm cho các hệ thống khung gỗ của đình trở nên sinh động. Mảng điêu khắc chủ yếu ở đình Đồng Minh thể hiện ở mặt tiền của 4 vì kèo là long, ly, quy, phượng, sóc, thạch sùng, lấy hình rồng và hoa cúc cách điệu làm chủ đạo, làm nền trang trí trên các mảng chạm khắc gỗ, ở trên các cấu kiện như: Câu đầu, xà nách, bẩy sau, kẻ hiên. Các con rường, hệ thống các vì có mảng kiến trúc giống nhau, với nhiều đề tài phản ánh tâm thức nông nghiệp, vừa toát lên ý tưởng của nghệ nhân xưa. Các vì chia gian nghệ nhân chủ ý chạm khắc ở kẻ hiên, bẩy sau, các bức cốn, thanh xà, hình tượng hoa cúc cách điệu ở các con rường, trụ.
Ngoài ra, mảng chạm khắc ở bẩy sau từ vì hồi đến các vì chia gian cũng rất độc đáo: mảng chạm cúc dây leo, hình chim phượng, loạt cá, cua, sóc, rùa đang bơi lội tung tăng trong hồ nước và đường nét mềm mại nhưng toát lên được thế mạnh của linh vật, cây cối, hoa lá.
Thông qua ngôn ngữ biểu hiện chạm khắc gỗ của đình Đồng Minh mà chúng ta thấy được hình tượng chủ yếu là các loại cây, linh vật, hoa lá như rồng, lân, giúp chúng ta đoán định được tín ngưỡng Nho, Phật giáo trong không gian văn hóa làng, xã xứ Thanh. Những tư tưởng phản ánh của người xưa gửi gắm bằng ngôn ngữ điêu khắc trên gỗ giúp chúng ta có thể hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Hệ thống thờ tự:
Gian giữa là nơi thờ Thành Hoàng (gồm 1 ban thờ bằng gỗ dài 1,7m, cao 1,32m đặt bát hương).