Tên di sản : Đình – Chùa làng Bùi
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 167/QĐ-UBND
Giới thiệu
Kiến trúc Đình:
Nằm giữa thửa đất số 409, nằm quay theo hướng Nam chếch Tây 150. Đình dài 18m, rộng 9m. Diện tích xây dựng 162m2.
Kiến trúc Đình được xây 5 gian, mái lợp ngói mũi, tường xây bao kết cấu 6 vì gỗ.
2 gian giáp hồi Đông và Tây, mỗi gian dài 2,5m.
Kết cấu vì 1 và vì 6 giống nhau có 2 cột cái thân và 2 cột quân. Các cột cái thân đều cao 4,40m, đường kính 0,35m, cột quân cao 3,5m, đường kính 0,30m.
Hoa tiết hoa văn của vì 1 và vì 6 đối xứng nhau, đầu vì nóc chạm khắc hoa tiết chạm phượng vì kẻ truyền chạm khắc long hóa ẩn vân, nách kẻ hạ trạm đầu long ân. Kẻ hạ chạm ly chạy ngược lên nóc.
Kết cấu vì 2, 3, 4, 5 giống nhau. Mỗi vì đều trốn cột cái tiền. Các cột cái hậu đều cao 4,40m, đường kính 0,38m, cột quân cao 3,5m, đường kính 0,32m.
Kết cấu các vì đều theo kiểu con so chồng giường, đầu các con số đều được chạm nội hình mặt rồng, kẻ truyền liên kết được trạm rồng ở đầu các con so là các giải liệt liên kết kiểu hoa lá. Nách mỗi kẻ đều tra hình Long Ẩn.
Thượng Lương bằng gỗ lim, rộng 20cm, dày 17cm chạy suốt tóc đình, gian giữa được khắc niên đại tôn tạo trong khung chạm chân khay, nội dung ghi: “Hoàng triều Tực Đức, Tân Tỵ (quý tuân nguyệt thự trụ thượng lương đại cát vang lượng”.
Xà vượt, xà đại và câu đầu có tiết diện 0,32 x 0,30m. Kẻ chung, kẻ hạ đều bằng gỗ lim có tiết diện 0,35 x 0,30m. Xà cái, Xà Thượng bằng gỗ lim, tiết diện 0,26 x 0,25cm.
Đặc biệt bộ xà ngạch gồm 5 chiếc tại Đình Bùi đều làm bằng đá nguyên khối, xà gạch được đục công phu nhẵn nhụi, bậc trong đục lỗ tròn để lắp cửa. Đây là một trong những di vật quý tại đình, cũng là bộ xà ngạch chưa từng thấy ở một di tích nào còn sót lại trong tỉnh.
Bảy hiên dài 1,6m có tiết diện 0,32 x 0,30m. Bộ bảy hiện tại Đình còn tương đối nguyên vẹn, được trạm khắc công phu.
Mặt chính bảy số 3 và số 4 được trạm cùng một đề tài rồng ở tư thế uốn lượn dáng như đang bay vào trong Đình. Xung quanh rồng điểm xuyết bằng những quầng mây.
Mặt bên của bảy số 3 và 4, các bảy 2 và 5 cùng được trạm một đề tài long hóa ẩn vận.
Bảy số 1 và số 6 được trạm đề tài long phượng.
Kỹ thuật điêu khắc ở các bảy đều theo kỹ thuật chạm bóng.
Cột hiên đều bằng đá nguyên khối có kích thước 2,2 x 0,24 x 0,24cm. Xung quanh cột trạm gờ.
Các chân cột đều được kê tảng kích thước 0,55 x 0,55m. Thêm và hè đình đều được bó nền bằng đá xanh.
Nóc mái đình xây chạy bờ nóc, trước kia có đắp Long chầu nhật, hai hồi xây bờ giải, tạo hình bằng các con xô (li) chạy trên bờ giải do ảnh hưởng bom đạn các cấu kiện này đã bị mất chỉ còn dấu vết và một vài phế tích rơi xuống còn sót lại.
Sân đình dài 25m, rộng 15m được lát gạch 3m chạy dài trước đình. Góc phía sân đình dạng tấm bia "Phối thần bi kí" (xem phần phụ lục). Bia cao 1,6m; rộng 1,2m; dày 0,3n được khắc chữ 4 mặt. Trán bia được chạm Long chầu nhật, diềm bia được trang trí hoa dây cách điệu, đế bia là một khối đá hình chữ nhật.
Các đồ thờ:
Đình có đặt thánh vị nhưng đã bị mục, hương án thờ bị nát nhiều. Hiện nay nhân dân xã mới làm bộ hương án mới, tuy đơn giản nhưng vẫn đậm đà tính nhân văn biết ơn những bậc tiền liệt đã có công xây dựng quê hương, làng xã.
Tại hương án trong đình có đặt thánh vị, bộ ngũ sự, chế, đài, 3 bát nhang lớn, các lọ hoa và ông hương. Đặc biệt tiền án có đặt bộ lư đồng mới làm giá trị 4 triệu đồng, của con em trong xã hiện đang công tác tại thành phố Hồ Chí Minh gửi về đóng góp cùng quê hương.
Các gian 1, 2, 4, 5 đều có xây bệ thờ những người có công xây dựng quê hương trên xà. Trang trí bằng những giải y môn và cờ phướn, UBND xã bao cấp toàn bộ đồ điện dùng trong di tích.
Chùa làng Bùi.
Theo tấm bia tôn tạo thờ "Vĩnh hựu nhị niên” (1706) thì chùa có từ lâu. Trước kia các đồ phật pháp và các toà phật điện đều đầy đủ.
Trận bom của thực dân pháp đánh vào gần chùa năm 1949 đã làm chùa sụp đổ, các đồ thờ và tam bảo phật bị hỏng nát hầu như toàn bộ.
Năm 1992, bà con trong xã và con em quê hương đang công tác tại nước ngoài và các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã đóng góp công sức và tiền của xây lại chùa.
Chùa được xây đúng vị trí nền chùa cũ, ngay sau đình, ngăn cách với đình bằng sân có bề rộng 7m. Chùa cùng với đình từ xưa đến nay nằm cùng trên một thửa đất số: 409
Chùa: kiên trúc vì kèo gỗ, đòn tay luồng, xây bao, đóng dui, mè luồng, lợp ngói. Chùa kiến trúc 3 gian 4 vì: lòng chùa rộng 4m, dài 9m, diện tích xây dựng 40m2.
Các vì kèo đều trốn cột cái. Cột quân bằng gỗ xoan cao 2,6m, đường kính 22cm. Quá giang dài 4m, gỗ tròn đường kính 20cm. Kèo cầu, câu đầu, tru gỗ tương đối chắc chắn.
Sân chùa rộng 70m được láng xi măng.
Tường áp chỉnh được dựng tấm bia "Trung Tư Thống Tự" vào năm 1706.
Phật điện: Gia chính chùa trên cùng thờ 3 pho Tam thế. Toà thứ 2 thờ tượng phật Di Lặc, toà thứ 3 để bát hương và bộ đỉnh đồng.
Hội phía Đông thờ tượng các Bồ Tát và Hậu Phật.
Hồi phía Tây treo quả chuông đồng mới đúc nặng 80kg của con em làng Bùi các nơi mang về cung tiến.
Xà dọc được treo trang trí các dải y môn và cờ phướn.
Dù rằng đây là ngôi chùa mới dựng lại, nhưng dựng trên nền cũ. Lịch sử ngôi chùa đã có từ lâu. Đây lại là một hiện tượng khác lạ, đình và chùa lại nằm chung một khu vực kiến trúc, đình hoà quyện với chùa. Phải chăng đây là một đặc thù của trường phái phật giáo Nội Đạo Tràng, có từ thời Trần mà vùng An Đông cổ xưa đã có một thời, là trung tâm trường phái phật giáo Nội Đạo Tràng của vùng ven biển Thanh Hoá.