Tên di sản : Bảng Môn Đình
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 208 VH/QĐ
Giới thiệu
Bảng Môn Đình và Miếu Đệ Tứ: là hai loại di tích khác nhau về thời gian xây dựng nên nội dung, ý nghĩa lịch sử khác nhau, song cùng được xây dựng kề sát nhau trên khu đất bằng phẳng tạo thành hình chữ đinh, phía trước là khu đình hội họp, đình gồm 5 gian, chính giữa bên trên treo bức đại tự sơn son thếp vàng khảm 3 chữ lớn: “Bảng Môn Đình”, bốn mái uốn cong cánh phượng, nóc hậu cung võng lầu đắp hình lưỡng long chầu nguyệt, hai mái đối diện bổ trụ bên ngoài dựng hai ngọn bút tháp sừng sững. Tổng diện tích là 160m2. Trước đình là mặt sân đình rộng lớn, kết cấu vì kèo gồm: cột cái, cột quân, cột hiên, đường xà, kẻ bảy, xung quanh xây tường.
Đình Bảng với nghệ thuật kiến trúc đã thể hiện nét độc đáo riêng biệt của nó. Đó là một đầu hồi của ngôi đình với hình thức bổ trụ đã tạo nên bốn mái con hình cánh phượng theo kiểu trồng diêm hai tầng. Ngoài ra, hai bổ đài phía trước và phía sau có gắn hình rồng uốn lượn để trang trí, tạo nên sự hài hoà với bốn mái cong đầu hồi và hai cột cao phía trước. Tất cả đều hoà nhập, ăn khớp làm cho kiến trúc không đơn điệu mà trái lại càng thêm bề thế và gây cảm giác trang nghiêm ở chốn đình làng.
Đình Bảng không những là nơi sinh hoạt văn hoá của các nhà Khoa bảng, mà nó còn là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo thế kỉ XIX. Vì vậy, nó là một tiêu biểu về nội dung lẫn hình thức trong cái đình làng – xã ở Thanh Hóa. Rất đáng được trân trọng để phát huy tác dụng cho việc giáo dục thuần phong mỹ tục của địa phương.
Miếu thờ Nguyễn Tuyên:
Cùng với Đình Bảng tạo thành hình chữ T, trong đó Miếu Đệ Tứ là nét dọc của chữ Đinh (hoặc chữ T). Còn gọi là kết cấu chuôi vồ, nơi đây thờ 1 nhân vật lịch sử, người xã Hoằng Lộc. Đó là Nguyễn Tuyên người có công giúp vua Lý Thái Tông trốn giặc ngoại xâm, bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập tự chủ.
So với Đình Bảng, Miếu Đệ Tứ thấp, nhỏ, hẹp hơn, gồm ba gian có diện tích 103,5m2. Vì vậy, kết cấu vì kèo rất đơn giản. Nét đáng chú ý ở đây là toàn bộ khung giá chiêng của 3 vì kèo và các đường đều trang trí những mảnh chạm khắc gỗ khá độc đáo, tạo nên sự khang trang, lộng lẫy của kiến trúc. Ngoài ra, đáng chú ý ở một số tác phẩm điêu khắc trong các đồ thờ cúng có bát hương án. Có thể nói, đây là một tác phẩm hoàn mỹ, điển hình cho nghệ thuật điêu khắc thế kỉ XVIII.
Tóm lại Miếu Đệ Tứ là một công trình kiến trúc gắn liền với kiến trúc Đình Bảng. Đây không chỉ là một di tích lịch sử tiêu biểu cho truyền thống chống giặc ngoại xâm của người dân Hoằng Lộc, mà nó còn là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo thế kỉ XVII.
Văn chỉ:
Theo lời kể của các cụ già ở địa phương: vị trí xây dựng văn chỉ từ xưa vẫn ở địa điểm hiện nay. Bốn phía đều có xây dựng bậc tam cấp để lên xuống; hiện nay còn ba tấm bia: Tấm bia thứ nhất ghi tên những bậc Khoa Bảng như: Nguyễn Nhân Lễ, Nguyễn Sự Lộ,...Tấm bia thứ 2 “Hoằng Hoá kỉ niệm bia”, bia này do Quân thần Hoằng Hoá ghi khắc ngày 11/11/1936. Và tấm bia thứ 3 ghi tên những người cung tiến để xây dựng lại văn chỉ.
Như vậy, Bảng Môn Đình là nơi tụ của các nhà Khoa Bảng thì Văn chỉ lại là nơi ghi nhận những tinh tú mà Bảng Môn Đình đã lựa chọn sắp đặt. Nên nó có quan hệ hữu cơ không thể tách rời với Bảng Môn Đình.
Những hiện vật trong di tích:
Sập hương án – một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ thế kỷ XVIII. Long ngai, Long khánh và bài vị Nguyễn Tuyên - danh tướng thời Lý Thái Tông.
Cuốn thần phả xã Hoằng Bột viết bằng chữ.
11 đạo sắc phong của các triều đại ban cho Nguyễn Tuyên.
Ba bia đá ở văn chỉ.
Bát hương đá và một số đồ thờ khác.