Tên di sản : Di tích khảo cổ học Mái Đá Điều
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích khảo cổ
Sô quyết định : Số 69/QĐ – CT
Giới thiệu
Bá Thước là một trong những huyện miền núi có sông Mã chảy qua, phân huyện ra hai vùng với hai địa hình khác nhau. Khu phía Bắc là các dãy đá vôi, xen lẫn dải đồi thấp. Khu phía Nam chủ yếu là những đồi xen lẫn núi đá vôi đứng riêng rẽ.
Di chỉ Mái Đá Điều thuộc làng Môn, xã Hạ Trung nằm về phía Đông Bắc của huyện Bá Thước, phía Bắc giáp làng Khiêng, phía Nam giáp thôn Mun, phía Tây giáp thôn Ché, phía Đông giáp xã Lương Nội. Cách huyện lỵ 12km và nằm bên bờ phần tả ngạn sông Mã.
Di tích Mái Đá Điều có chiều dài 43m, rộng nhất 6m6, hẹp nhất là 14m6, trần cao khoảng 25m, cửa quay về hướng đông nam, thoáng mát, nằm ở độ cao chừng 8,9m so với lòng suối cái trước mặt.
Dưới chân núi trước cửa hang ngày nay là một thung lũng hẹp, quanh năm cây cỏ xanh tốt, có suối chảy quanh không bao giờ cạn. Hẳn rằng xưa kia thung lũng này rất rậm rạp có nhiều giống loài thực vật, động vật, sinh sôi, trú ngụ. Những dòng suối chảy trong thung lũng là nơi cung cấp các loài tôm, cá và nhuyễn thể dồi dào cho người nguyên thuỷ. Di tích đá được tiến hành 3 đợt thăm dò, khai quật.
Năm 1984, di chỉ Mái Đá Điều được phát hiện.
Năm 1986, đã tiến hành khai quật I.
Năm 1888 đã tiến hành khai quật đợt II.
Năm 1986, di tích Mái Đá Điều được đào hai hố, diện tích 24m2, tầng văn hoá dày 3,5m, tìm thấy 2082 di vật đá, 16 mộ, 664 mảnh xương động vật có xương sống, 2858 càng cua, 61665 vỏ trai ốc, mảnh chứng cho các giai đoạn phát triển văn hóa khác nhau.
Các tầng đất (từ dưới lên)
Lớp sét laterit, ở độ sâu 3,5m đến 4m (độ sâu 4m chưa tới đá nền) đất sét vôi màu hồng kết dính, lẫn sạn laterít dạng trứng cá đơn lẻ. Trong lớp đất này có ít mảnh tước, ít than, không có vỏ ốc. Trong phạm vi hố đào, đây là giới hạn đầu trước khi có người đến ở, có tuổi tương đương với tầng Laterit trẻ, thuộc hậu kỳ Pleistocene.
Lớp sét màu nâu nhạt, nằm trên lớp sét Laterít và dưới lớp tảng đá vôi, nhũ đá, độ sâu 2,4m đến 3,5m. Đất sét vôi lẫn ít cát và sạn màu nâu nhạt. Ở lớp đất này thấy xương động vật hoá thạch, ốc đá vôi hoá bở tơi dạng bột, cùng di vật đá đặc trưng Sơn Vi và một số tiêu bản khác Sơn Vi, không có công cụ văn hoá Hoà Bình. Đây là lớp văn hoá sớm nhất ở Mái Đá Điều, thuộc văn hoá Sơn Vi, có thể giai đoạn sớm.
Lớp đá vôi và nhũ đá: Ở độ sâu từ 2m đến 2,4m, chúng có kích thước lớn (trung bình 50cm x 60cm) phủ kín nửa bề mặt của mái đá (ở hố 2 chúng chồng chất lên nhau, còn hố 1 diện phân bố thưa hơn.). Nửa trong mái đá phủ lớp nhũ dày 20cm. Lớp nhũ đá cùng thời với đá vôi lăn từ mái đá xuống.
Lớp sét màu đen nhạt, ở độ sâu 1m đến 1,2m đến 2,4m, đến 2,6m, đất sét lẫn sạn dẻo, màu đen nhạt. Ở đây có những vệt ốc nguyên đá Carbonat hoá, xương động vật chớm hoá thạch, 2 mộ chôn nằm co; một trong đó đặt trên mặt đá, còn mộ kia phủ nhũ đá. Công cụ Sơn Vi chiếm chủ đạo, gặp một vài công cụ gần Hoà Bình. Đây là lớp văn hoá giữa ở Mái Đá Điều thuộc văn hoá Sơn Vi, có thể thuộc giai đoạn muộn.
Lớp sét màu vàng nhạt, khô tơi, ít ốc, ở độ sâu từ 0,2m đến 1,2m, đất lẫn cát sạn, mảnh canxit. Xương chưa hoá thạch, ốc bảo tồn tốt, có 14 mộ, tồn tại công cụ đặc trưng văn hoá Hoà Bình bên cạnh những công cụ kiểu Sơn Vi.
Lớp đất mặt: dạng bột tơi, trắng đục hoặc vàng lẫn lá cây, mảnh sành bát, than tro, dày từ 10cm - 20cm.
Hiện vật trong di tích:
Mảnh đá vôi: 5102 tiêu bản
Mảnh vỡ từ đá cuội: 15574 tiêu bản
Mảnh tước cuội: 1226 tiêu bản
Hạnh đá: 45 tiêu bản
Chày: 31 tiêu bản
Cối: 30 tiêu bản
Công cụ mảnh tước: 61
Công cụ cuội ghè: 493
Công cụ chưa hoàn thiện: 186
Công cụ mài lưỡi: 4
Cụ thổ hoàng: 13
Mảnh gốm cổ: 9
Mảnh sành bát: 120
Tiền đồng: 1
Ngoài những hiện vật trên, di tích còn 18 mộ táng (trong đó có 2 mộ chưa xử lý) còn lại 16 mộ phân chia làm ba nhóm niên đaị: Những mộ M16 và M15 gặp ở lớp văn hoá II có niên đại cổ nhất, mộ M4 và M8 chôn nằm thẳng gặp ở lớp văn hoá trên cùng, mộ M8 có biên mộ từ lớp mặt cắt vào lớp văn hoá. Chúng có niên đại muộn nhất. Các mộ còn lại chôn nằm co hoặc bó gối phân bố trong lớp giữa, các nhà khảo cổ cho rằng có khả năng chúng thuộc tầng văn hoá Hoà Bình.
Về di cốt động vật ít, chủ yếu là động vật nhỏ. Tồn tại khá nhiều xương cá, dấu tích vỏ ốc nhiều ở lớp giữa, ít hơn lớp dưới và hiếm ở lớp trên. Ở tầng dưới, giữa chủ yếu là ốc núi, ở lớp trên đa số là ốc ruộng.