Tên di sản : Di chỉ KCH Khu lò gốm Tam Thọ
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích khảo cổ
Sô quyết định : Số 255/QĐ-CT
Giới thiệu
Khu lò gốm Tam Thọ, theo những kết quả nghiên cứu của giới khảo cổ học quốc tế và trong nước, là khu lò gốm có quy mô lớn nhất trong giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên ở Việt Nam.
Khu lò gốm này phân bố theo rìa con sông “Kênh Đô” thuộc hai làng Tam Thọ và Văn Vật. Trong quãng hơn 1km có hàng ch���c gò đất nhô cao chứa các lò nung cổ. Các gò đất này thường có đường kính 30 - 40cm, chiều cao từ 2,8m đến 3,5m so với mặt ruộng ngày nay. Thông thường mỗi một gò đất đó có ít nhất ba lò nung cổ cùng hoạt động. Như vậy, thời điểm phát triển mạnh nhất của khu lò này có hàng chục lò nung gốm cùng hoạt động.
Bên cạnh những lò gốm thuộc giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên, ở Tam Thọ và Văn Vật còn tồn tại một hệ thống lò sành có niên đại muộn hơn. Theo kết quả nghiên cứu mới đây nhất của Bảo tàng Thanh Hoá và Viện Khảo cổ học.
Lò nung số IA ở Gò Chùa làng Văn Vật được 0.Janse khai quật năm 1937 là một lò nung điển hình cho loại lò Cóc ở Tam Thọ.
Lò nung này chạy theo hướng Đông - Tây. Cửa lò nằm ở hướng Đông. Quy mô chung của lò nung này là: phần bầu lò dài 2,20m; phần thân lò dài 6,30m. Chiều rộng nhất của lò là gần 2m. Chỗ cao nhất còn lại của tường lò là 1,60m. Tường lò chủ yếu đắp bằng đất sét và đã nung chín. Vách lò phía Bắc được xây một đoạn bằng gạch chạy lại gần 1m, ở giữa để chừa một cửa rộng 0,58m. Có lẽ cửa này dùng để ra vào sản phẩm của lò nung.
Cấu trúc của dạng lò nung này đã được 0.Janse vào thời điểm năm 1937 so sánh với các lò thủ công ở làng Thổ Phương gần Hàm Rồng. Ngày nay, chúng ta còn thấy kiểu lò nung này ở khu lò Chum, thành phố Thanh Hoá.
Loại hình lò ống ở Tam Thọ rất phổ biến. Trong tổng số gần 10 lò nung do Bảo tàng Tổng hợp và Viện Khảo cổ học khai quật năm 2001 thì tất cả đều là dạng lò Ông, lò Ông thực chất cũng là loại lò Cóc có kích thước kéo dài ra. Các lò nung số 1A - Gò Quyến (Thôn Tam Thọ) có chiều dài 9,15m; Lò số 1 - Gò án Lớn (làng Văn Vật) đạt tới 12,4m. Do kích thước của các lò này dài, lại không có cấp bậc nên độ dốc của mặt nền lò là rất lớn. Thông thường độ chênh lệch từ bầu đốt đến hậu lò là hơn 1m. Nhiều khả năng khu lò sành làng Văn Vật có dạng lò ống này. Kiểu lò Ông ở Tam Thọ còn thấy tồn tại ở các trung tâm gốm cổ của nước ta như Chu Đậu (Hải Dương) thế kỷ XV - XVI; Gò Sành (Bình Định) thế kỷ XV - XVII…
Sản phẩm của các lò nung Tam Tho:
Khu lò gốm Tam Thọ có rất nhiều loại hình hiện vật khác nhau. Theo kết quả khai quật khảo cổ học, cho đến nay, chúng ta biết có tới 18 loại hiện vật khác nhau.
Nhóm đồ đựng có: chậu, bình, vò, nồi, cốc, khay, đĩa, bát,...
Nhóm vật liệu xây dựng có gạch và ngói. Gạch xây dựng ở Tam Thọ có loại gạch múi bưởi gạch bìa hình chữ nhật, gạch lát nền hình vuông. Các loại gạch ở Tam Thọ có kích cỡ khác nhau, nhiều viên có trang trí hoa văn hình học. Ngói ở Tam Thọ có hai loại ngói chính là ngói ống và ngói bản. Ngói ống có dạng hình như một ống tre bổ đôi thành một nửa có dạng lòng máng hay bán viên. Loại ngói này được làm bằng khuôn có lót vải ở mặt trong nên hầu hết các mảnh ngói còn thấy ở Tam thọ có dấu vải in ở mặt trong ngói. Mặt ngoài (mặt dương) thường có hoa văn trải. Loại ngói ống có thêm phần đầu ngói (ngoã đương). Thường là hàng ngói cuối cùng của mái đã phát hiện được ở Tam Thọ. Các mặt ngói của đầu ngói ống Tam Thọ thường được trang hình cánh sen.
Ngói bản có độ cong rộng không giống ngói ống. Ngược lại với ngói ống, ngói bản thường có hoa văn trang trí ở mặt âm (mặt dưới của mái và là mặt cong lối của viên ngói). Lọai ngói này có hoa văn chải ở mặt âm của thân ngói. Đầu của loại ngói này thường có các loại hoa văn khác như: Văn in ô vuông, văn trám lồng hoặc văn xương cá.
Ngói, gạch ở Tam Thọ có các màu sắc phổ biến như: đỏ, hồng, xám, tím. Giữa các màu chủ đạo đó còn có những loại màu sắc giao lưu do độ nung hoặc chất đất khác nhau mà thành. Nhiều viên gạch, ngói do được nung ở nhiệt độ rất cao nên đã trở thành loại sành xốp.
Nhóm hiện vật là đồ minh khí (thường dùng chôn theo mộ) có các loại mô hình nhà, mô hình kho thóc, mô hình giống vv...
Nhóm hiện vật là công cụ sản xuất có: chì lưới, dọi xe chỉ, bàn dập hoa văn gốm.
Nhóm hiện vật là tượng động vật nhỏ có: lợn, bò có bướu, vịt nặn sơ sài như đồ chơi của trẻ con.
Ngoài ra tại khu lò Tam Thọ, qua kết quả khai quật chúng ta thu được hàng vạn mảnh gốm là sản phẩm bị hư hỏng trong quá trình sản xuất. Những mảnh vỡ này đã cung cấp hầu như tất cả các loại hoa văn trang trí trên đồ gốm Tam Thọ. Theo thống kê, phân loại sơ bộ hoa văn đồ gốm Tam Thọ có ít nhất 10 loại khác nhau. Trong đó, chủ đạo có các loại hoa văn sau đây:
Hoa văn ô trám: Đây là loại hoa văn có số lượng mảnh chiếm nhiều nhất. Văn ô trám có các loại văn trám đơn, văn trám lông từ 1, 2, 3, 4, 5 thậm chí có nhiều nét lồng nhau hơn. Thông thường các loại văn trám lồng có hình trám nhỏ nhất trong cùng nối ở giữa. Các loại trám đơn thường có hình in chìm.
Hoa văn in ô vuông: Loại hoa văn này thường được in chìm trên các đồ vật, đồ án in ô vuông thường kết hợp với một số hoa văn hình đồng tiền (dấu ấn thương phẩm), hoa văn hình hoa thị,
Hoa văn xương cá hoặc lá dừa loại hoa văn xương cá có kích thước nhỏ. Hoa văn lá dừa cũng là loại văn xương cá có kích thước lớn hơn. Loại văn này thường thấy trên các nắp vung, đầu ngói bản,…
Hoa văn phên đan: Loại văn này có đồ án rất giống các nan đan láng một của các loại rổ rá. Loại văn này chưa hề phát hiện trong các mô Hán tại Thanh Hoá. Đây cũng là một loại hoa văn có tỷ lệ lớn ở các lò nung Tam Thọ. Ở kho của Bảo Tàng Thanh Hoá hiện có một nắp vung còn nguyên vẹn trang trí kín đồ án hoa văn này.
Hoa văn Thừng: Có loại hoa văn thừng thô và loại văn thừng mịn. Hoa văn thừng thường được trang trí trên các đồ gốm đáy tròn, miệng loe, kiểu nồi gốm, “Đường cô”.
Hoa văn chải: Loại hoa văn này thường xuất hiện chủ yếu trên ngói ống và ngói bản. Có loại văn chải thô và văn chải mịn.
Hoa văn sóng nước và hoa văn vòng chỉ chìm: Loại hoa văn này chủ yếu xuất hiện trên các đồ đựng như trên vai bình, vò, miệng bát v.v...
Hoa văn đắp nổi: Loại này xuất hiện chủ yếu trên vai các loại chậu.
Gốm Tam Thọ cũng có một số lượng nhất định được tráng men. Đồ gốm men Tam Thọ, qua kết quả khai quật có các màu cơ bản như men đen, men ngọc non. Các loại men trên có các loại biến thành xám, thành men co giọt. Do tính chất, kỹ thuật nung của lò nung Tam Thọ chưa thấy xuất hiện các bao nung nên đồ gốm men chưa đạt đến chất lượng cao. Một bộ phận đáng kể trong gốm men ở Tam Thọ là loại men tự chảy. Loại men tự chảy có nguồn gốc một phần do tính chất của xương gốm (có nhiều thành phần dễ chảy thành lớp thuỷ tinh), một phần do tro bụi của quá trình nung mà tạo thành loại men tự nhiên này. Quan sát các mảnh gốm hoặc các đồ gốm còn nguyên chúng ta nhận ra sự không đồng đều của màu men trên cùng một đồ vật. Rõ ràng sự tiếp xúc của đồ gốm với nhiệt độ nung, với tro bụi ở các vị trí khác nhau trong lò sẽ tạo ra độ dày, mỏng, màu sắc của men khác nhau.
Về màu sắc, chất liệu gốm Tam Thọ cũng rất phong phú. Ngoài đồ gốm men, đồ gốm Tam Thọ có các màu sắc chính: màu xám xanh, màu xám ghi; màu nâu xám, màu đỏ, màu hồng, màu trắng hồng, màu vàng gạch... Nhóm màu xám thường có độ nung rất cao, xương gốm đanh, xốp, được các nhà chuyên môn gọi là sành xốp . Các màu đỏ, hồng, trắng hồng, vàng gạch thường có độ nung th��p hơn, Xương gốm có loại mịn có loại thô.
Nhìn chung chất liệu chính của xương gốm Tham Thọ là đất sét tự nhiên ở Tam Thọ. Một số đồ vật như gạch ngói có thể được dùng trực tiếp từ sét tự nhiên để làm sản phẩm. Một số loại đồ gốm chắc chắn đất sét tự nhiên đã được lọc rửa và pha trộn tỷ lệ rất cẩn thận.
Các hiện vật của di tích:
Các hiện vật của di tích khu lò gốm Tam Thọ là bản thân các lò gốm trong lòng đất ở Tam Thọ. Ngoài ra hàng ngàn hàng vạn mảnh gốm Tam Thọ đang được lưu giữ ở Bảo tàng lịch sử Việt Nam (Louis Finot), Bảo tàng Tổng hợp Thanh Hoá, Bảo tàng Guimet ở Pari (Pháp), Bảo tàng của Học viện Havard (Mỹ). Những lưu tập đồ gốm Tam Thọ còn có rất nhiều trong các sưu tập cá nhân ở Hà Nội, ở Thanh Hoá.