Tên di sản : Đền thờ vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và các địa điểm liên quan Đến Lăng Quốc Mẫu

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 839/ QĐ – BTBVH

Giới thiệu

 

Ngôi đền hiện nay nằm trên khu đất cao, rộng 1022,825m2, tách biệt thôn Trung Lập một chút về phía Bắc. Ngôi đền nằm trên nét ngang thống nhất của khu đất có hình chữ “Vương”, đứng trên nền nhà bà Đặng Thị, thân mẫu Lê Hoàn.

Ngôi đề quay hướng Nam, phía Tây có hồ, xung quanh là cánh đồng thoáng mát, tôn vẻ đẹp di tích với cây cối xanh tươi.

Đến thăm đền, sau khi qua hai cột nanh cao vút, trên đỉnh mỗi cột có một con Nghê ngồi chầu. Đi khoảng 35m tiếp đến “Nghinh môn” gồm 3 gian nhà lợp ngói, được chống đỡ bởi 12 cột lim, diện tích Nghinh môn là 50m2. Cách đấy 50m về phía tay trái là nhà che bia, có 4 mái để bảo vệ hai tấm bia đá. Sau Nghinh môn có “sân rồng” 550m2 lát gạch dày bản, đoạn sát sân hiên, gạch có trang trí hình hoa sen bốn cánh.

Ngôi đền kiến trúc kiểu “Nội công, ngoại quốc”. Toàn bộ chiều cao của công trình có cùng độ cao và có vẻ hơi thấp một chút so với kiến trúc đình, đền mà ta thường thấy.

Tám tàu mái của nhà tiền đường và hậu cung là những bộ phận được đặc biệt chú ý, với độ cong vừa phải, dến đoạn cuối các tàu đao hướng theo chiều các bờ giải lên đỉnh nóc tạo thành tám góc đền như nâng bổng công trình lên, nhờ vậy mà tuy phần mái có phần hơi xòe rộng, nhưng không chút nặng nề. Mỗi đầu đao được gắn một hình mặt phù bằng đất nung. Tại điểm chốt của mỗi tàu đao lại được gắn một con nghê nhỏ trông dáng ngồi chầu hướng lên bờ nóc.

Chạy dọc hai bờ dải tiền đường gắn những con Nghê trong các tư thế khác nhau tạo thành cảnh đàn Nghê rất sống động, bằng chất liệu nung già thành sàn, đen bóng, phủ hết bờ nóc có đôi rồng chầu mặt nguyệt.

Ba mặt công trình được liệt bản gỗ. Cửa chính tiền đường là hệ thống cửa bức bàn. Tiền đường 5 gian, trung đường 3 gian, hậu cung 5 gian với 54 cột lim, chống đỡ công trình chắc chắn. Diện tích tiền đường là 98m2, trung đường là 39m2, diện tích hậu cung bằng tiền đường, tổng diện tích toàn công trình là 235m2.

Các vì kèo tiền đường cấu trúc theo lối chồng giường giữa các con giường đều có đấu kê đậm. Có xà nách, kẻ truyền liên kết các xà ngang, xà dọc thành khối chắc chắn. Riêng hai kẻ kéo dài ra hai góc hiên phía trước, chỗ cắt ngang hàng cột cũng được cấu trúc ½ vì kèo, có tác dụng kê đậm chống sụt góc mái. Một bức chạm bong được trình bày phía ngoài hiên, kéo dài đến hết chiều rộng gian giữa ở phía trên khung cửa chính với mô típ “Rồng ổ” khá đẹp. Ngăn cách giữa trung đường và hậu cung là bức “cửa cấm” gồm 6 cánh cửa bức bàn, bằng kỹ thuật chạm thủng với mô típ chim phượng, xòe rộng cánh, “long mã” đang phi trong cảnh áng mây. Phía trên “cửa cấm” kéo lên sát vì kèo liệt gỗ kín, trên đó chạm bong đôi rồng chầu mặt nguyệt.

Những tác phẩm hình con Nghê ở đây không được thể hiện với phong cách tồn tại độc lập từng con một mà chúng hợp thành bầy, quần tụ và giữa chúng hiện sự giao cảm rất rõ rệt. Khác với hình tượng các con vật này, ở các đình đền thường trong tư thế đứng canh gác, im limg có vẻ dọa dẫm, mọi hoạt động của bầy nghê trên nóc đình thờ đều hướng vào nhau, với dáng điệu lộ rõ vẻ hiền hòa, vui và rất sống động. Người nghệ sĩ dân gian thể hiện những tác phẩm này rõ ràng có bàn tay chuyên luyện, không để chút sai sót, cẩu thả trong các chi tiết tác phẩm.

Mang đậm màu sắc dân gian, tình cảm hồn hậu, những người dựng đền thờ còn sáng tạo ra những bức chạm trên gỗ thật đẹp. Ngay phía ngoài hiên, kéo gần hết chiều ngang gian giữa trên bộ cánh cửa bức bàn có một bức chạm bong mô tả 3 thế hệ rồng. Hai rồng lớn chầu lại, bám qaanh rồng lớn là rồng nhỏ và rồng nhỡ. Tất cả đều cắn vào phần  vây, vẩy và râu rồng lớn, hướng về phía trước tạo thành hai ổ rồng chầu nhau, thật hòa hợp, hạnh phúc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “rồng ổ” là hình tượng phán ánh lòng mong muốn sinh sôi nảy nở, sự quần tụ, xum vầy.

Bộ cánh cửa bức bàn ngăn cách trung đường với hậu cung còn gọi là cửa cấm gồm sáu cánh. Bằng kỹ thuật chạm thủng thể hiện những con phượng xòe rộng như hình cánh sen, trong những dây cúc trải dài như những dải phướn nhà Phật. Những con long mã đang phi rước kiệu, bờm tung hoành những dải song song kéo dài, hai con sư tử đang vờn nhau. Những bông hoa cúc thể hiện sự trau truốt đến từng chi tiết. Những bức chạm ở “cửa cấm” đạt đến trình độ thật điêu luyện. Người nghệ sĩ không hề để xảy tay dò một nét nhỏ trong tác phẩm của mình.

Năm 1626, nhân dịp trùng tu đền, theo lời đề nghị của các thành viên coi đền và dân bản xã, Thượng thư Nguyễn Thực đã soạn văn bia dựng ở đền thờ Lê Hoàn. Hiển cung Đại phu Thái Bộc tự thiếu khanh Đỗ Nghiêm viết chữ “Sáng lập Lê Đại Hành hoàng đế điện miếu bị minh tự”. Bia dựng trên một phiến hình chữ nhật chiều dài 1,17m, rộng 0,84m, dày 0,29m. Mặt trước bệ chạm hình rồng uốn lượn. Diềm trên bề mặt bệ khắc nổi hình 3 lớp cánh sen, kéo hết chiều rộng của bệ.

Về nội dung bia: Mở đầu là đoạn văn triết lý nói về các nơi xuất ra các bậc anh hùng đế vương đời trước trong sử Trung Quốc như Đế Thuấn sinh ra ở đất Chư Phùng, được vua Nghiêu nhường ngôi. Văn vương nổi lên ở kỳ ấp, Hán Cao Tổ nổ lên ở Phong Bái, đất Thụy Nguyên, Thọ Xuân sinh ra vua Lê Đại Hành sánh ngang cùng vua Tống, vua Đường. Văn bia cũng nhắc tới thuyết bà Đặng Thị mộng hoa sen sinh ra Lê Hoàn và biện giải việc Lê Hoàn lên ngôi là hợp lẽ.

 

Hình ảnh Đền thờ vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và các địa điểm liên quan Đến Lăng Quốc Mẫu

Đền thờ vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và các địa điểm liên quan Đến Lăng Quốc Mẫu

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật