Tên di sản : Đền thờ, bia ký lăng mộ Quận công Lê Bùi Vỵ (Lê Bá Trí)
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 4184/QĐ-UBND
Giới thiệu
Ngôi đền hiện nay hướng Nam, kiến trúc kiểu chuôi vồ, một gian hậu cung, nối với ba gian tiền đường, dài 6,4m, rộng nhà tiền đường 4,5m, chuôi vồ rộng 1,95m.
Diện tích xây dựng: 6,4m x 6,45m = 41,6m2.
Gồm 3 gian tiền đường, một gian chính tẩm (chuôi vồ) gắn với tiền đường.
Khuôn viên xây dựng 280m2.
Khu ao hồ 850m2
Khu bảo vệ bất khả xâm phạm thửa đất số 515 đền.
Các hiện vật có trong di tích:
Đồ thờ: Ngai thờ gỗ trên có bài vị ghi Đương Cảnh Thành Hoàng Dục Chính uy linh chi thần.
Một ngai thờ bằng đá chạm trổ tinh vi
Hai áo chầu thêu phượng, hai đai, một đôi hia gỗ sơn ta còn bóng đẹp có hoa vấn.
Các bức đại tự, câu đối.
Các văn bản mẫu
Sớ xin phong tước cho con cháu do cụ Lê Bùi Vỵ viết năm 1750.
Sớ xin phong tước do cụ Lê Bùi Vỵ viết năm 1761.
Bản kê khai ruộng đất của cụ Lê Bùi Vỵ sau khi về chế sĩ (sau năm 1750).
Văn bản cam kết giữa cụ Lê Bùi Vỵ và các thôn trong xã Lưu Vệ và xã Hoàng Thanh về việc cụ phân chia ruộng đất cho các thôn làm hương hỏa thờ cúng cùng các hình thức lễ bái sau khi cụ mất.
Văn tôn vinh của các quan viên xã Lưu Vệ về việc tiếp nhận ruộng đất, tiền bạc do cụ Lê Bùi Vỵ ban và cam kết về việc thờ cúng cụ sau khi cụ mất và tôn vinh cụ làm phúc thần của xã (viết năm 1742).
Văn bản của xã Quỳnh Đôi, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên về việc tiếp nhận 1 mẫu ruộng của cụ ban về việc thờ cúng cụ (viết năm 1752).
7 đạo sắc phong thần của triều Nguyễn vào các năm:
Tự Đức năm thứ 6 (1853), Tự Đức năm thứ 33 (1880), Đồng Khánh năm thứ 2 (1886), Thành Thái năm thứ 13 (1901), Duy Tân năm thứ 3 (1910), Khải Định năm thứ 9 (1925).
(2 lần phong nhân dịp mừng Vua Khải Định 40 tuổi).
Tặng các mĩ tự “Quang Ý Trung Đẳng Thần” và “Đôn nghị Tôn thần”. Trong tất cả các đạo sắc đều ghi…” cho phép theo lệ thờ cúng và ghi vào sử sách như một ngày lễ của nước để thờ cúng”.