Tên di sản : Đền thờ Thần Trấn Đông

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 3975/QĐ-UBND

Giới thiệu

Đền thờ thần Trấn Đông nằm ở giữa làng, ngay sát trục đường chính của làng, nhìn theo hướng Đông. Hiện tại, đền thờ bao gồm các hạng mục công trình: Nghinh môn, Sân, Bình phong, Tiền đường, Hậu cung và nhà sắp lễ, ngoài ra còn có sân vườn. Mặt bằng chính của đền thờ kết cấu kiểu chữ Đinh (thực ra, nhìn tổng thể hệ mái đền thờ có kiến trúc hình nét sổ dọc, nhưng theo mặt bằng sử dụng và hệ tường xây bao có kết cấu hình chữ đinh).

Nghinh môn.

Nghi môn của di tích không nằm trên trục thần đạo mà nằm sát trục đường liên xã, có kết cấu theo kiểu trụ biểu - tường bao, được xây dựng năm 2004. Trụ biểu tương đối lớn gồm đỉnh trụ đắp nghê, mặt hướng vào nhau, thân trụ soi gờ kẻ chỉ, để trơn không trang trí, đắp nổi những dòng Đại tự và đội câu đối chữ Hán.

Phiên âm:

            Từ đường khai sáng phụng tiến linh

            Hương hoả tôn nghiêm lưu hậu thế

Dịch nghĩa:

           Khai sáng từ đường để thờ phụng tổ tiên

           Hương hoả tôn nghiêm lưu lại hậu thế.

Hai bên cột trụ là hệ thống tường lửng bao quanh sân và toàn bộ khu nội tự của đền thờ. Phía trước, qua bức tường lửng là cánh đồng khá rộng, tạo cảnh quan hữu tình cho di tích.

Sân: Sân đền thờ có chiều dài 19,40m; rộng 11,2m, lát bằng gạch bát truyền thống có kích thước cỡ 20cm x 20cm.

Bức bình phong: Bình phong được xây cùng niên đại với ngôi đền thờ, có kích thước: chiều rộng: 2,11m; chiều cao: 2,16m; dày: 53,4cm.

Nhà Tiền đường: Nhà Tiền đường có chiều dài: 5,62m; chiều rộng: 3,26m theo lối kiến trúc cuối thời Nguyễn, mặt tiền xây theo kiểu cổng Tam quan, gồm ba cửa xây cuốn vòm, các cánh cửa làm theo kiểu panô hình thức mới, tại tường các cửa hiện đang còn cối cửa cũ bằng đá. Tường phía Nam và phía Bắc của Tiền đường có ô thông gió hình chữ Thọ.

Cửa chính cao 2,32m, rộng 1,57m, vòm trên trang trí hoa văn hồi văn; cửa bên tả và bên hữu kích thước bằng nhau: có chiều cao 2,02m, rộng 0,87m vòm cửa trang trí hoa văn hoa cúc cách điệu.

Trên nóc vòm của cửa giữa được thiết kế kiểu hai tầng mái chồng diêm, mỗi tầng 4 mái, đầu đao trang trí hoa văn vân mây cách điệu, nóc trên cùng trang trí hoa văn hổ phù đội hoa lửa, tầng trên đắp nổi bốn chữ Hán viết theo thể chữ Chân “Trấn đông thần từ” - (Từ đường thờ thần có công trấn trị vùng đất phía đông), trên pha sát của chính (mặt tiền) đắp nổi hình tượng trang trí nằm trong khuôn hình cầu, phải chăng ở đây mô tả hoạt cảnh non thần trong một điển tích cổ “Non thần” ở Trung Quốc. Tên ba ngọn núi thần: Bồng Lai, Doanh Châu, Phương Trượng ở Bột Hải, phía bắc Trung Quốc, là chỗ Tiên ở.

                                                 “Vời trông năm thức mây vần,

                                                  Hồn chưa đến chốn non thần đã mê”

                                                                                                          (Bích Câu kỳ ngộ)

Rèm trên và hai tại trang trí hoa văn hồi văn. Cửa tả và cửa hữu trên mái trang trí lưỡng long chầu vào nhau, Hình ảnh đôi rồng chầu ở đây không những biểu tượng cho quyền uy, sức mạnh và linh thiêng của nơi thờ tự mà còn ẩn trong đó những giá trị nhân văn, phản ánh trí tuệ, ước vọng cầu mùa màng tươi tốt của con người.

Hai đầu cột nanh thay trụ biểu là hai tượng nghe đối nhau mang ý nghĩa nhằm thể hiện sự uy nghiêm và linh thiêng của ngôi đền; các ô thoáng trang trí hoa văn tứ quý là Tùng, Cúc, Trúc, Mai. Trong đó Tùng biểu trưng cho khí phách hiện ngang của người quân tử; Cúc biểu tượng cho long chung thuỷ; Trúc tượng trưng cho sự ngay thẳng và cốt cách; Mai tượng trưng cho sự thanh cao và khí tiết của người quân tử.

Phần trước mái được lợp ngói ống nhằm tạo ra sự điều hoà không khí và thể hiện triết lý âm dương của người xưa; hệ mái của đền thờ khá đơn giản: Kèo suốt, quá giang gác tường, 6 đôi xà gồ được gác trên 4 vì kèo đơn, liên kết giữa các xà gồ là các thanh rui, trên cùng là Thượng lương. Vì kèo, xà gồ, đòn nóc đều được làm bằng gỗ tứ thiết. Kỹ thuật đơn giản, bào trơn đóng bén.

Hậu cung: Hậu cung có chiều dài: 2,55m, chiều rộng: 3,35m, ở các tường phía Bắc và phía Nam của Hậu cung đều được trổ ô thoáng thông gió giống kiểu cửa chớp, là nơi thâm nghiêm bài trí long ngai – bài vị thờ Thần ghi dòng chữ: “Trấn Công ty mãnh Huân liệt dực bảo trung hưng đoạn túc tôn thần”. Từ tiền đường vào hậu cung có trổ hai của hai bên, đây là sự ảnh hưởng của lối kiến trúc ở giai đoạn cuối cùng của thời Nguyễn.

Nhà sắp lễ: Nhà sắp lễ nằm ở phía Bắc của đền thờ, được xây hai gian theo kiểu nhà cấp 4 bằng bê tông, mái lợp ngói máy, diện tích khoảng 20m2, phần mái của công trình này được làm theo kiểu gác trênh, kèo suốt, bào trơn đóng bén. Dòng họ Lê Đình mới xây lên trong những năm gần đây để lấy nơi chuẩn bị đồ lễ trước khi vào đền thắp hương, lễ bái

Về nghệ thuật trang trí: Nhìn một cách tổng quan thì di tích đền thờ thần Trấn Đông có nghệ thuật trang trí không mấy đặc biệt, mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn muộn mà nổi bật là phần trước của Tiền đường. Bên trong không có nét trang trí gì độc đáo.

Hệ thống thờ tự:

Nhà Tiền Đường.

Diện tích Tiền đường khá hẹp, khoảng gần 30m2, nền lát gạch hoa. Chính giữa bày kiệu rước, bên trong là hương án, bên trên có các đồ thờ tự gồm một cỗ long ngai và nhiều đồ thờ tự khác như bát hương, mâm bồng, chân nến, đài nước... Phía trên hương án và kiệu thờ này là một bức Đại tự có 4 chữ “Khí tự nhi thân” (Khí thiêng tụ ở khắp nơi) dòng lạc khoản ghi niên hiệu Bảo Đại thứ 13 (1938), do Hội văn chức thôn Đông Thành, Đông Tào kính cần ghi chép. Hai bên còn treo các đôi câu đối chữ Hán ca ngợi công đức của thần và cảnh quan di tích do toàn tộc cung tạo.

Phiên âm:

                 Bạng Nga mạch dẫn giang sơn tú

                 Long Báo thời sinh thế đại xương.

Dịch nghĩa:

                 Cửa Bạng, núi Nga mang đến sự kỳ tú cho giang sơn;

                 Mạch đất tốt kiến cho dòng họ muôn đời thịnh vượng.

Phiên âm:

                Công đức trường diên Nga dữ Bạng

                Uy thanh lẫm liệt tướng nhi thần

Dịch nghĩa:

              Công đức dài lâu nối mạch nơi núi Nga, c��a Bạng

             Uy thanh lẫm liệt vừa làm tướng vừa làm thần.

Khắc vào mùa đông năm Nhâm Tuất thời Khải Định (1923).

Các phía bên tả và bên hữu đặt trang trọng ban thờ các ông Trưởng chi của dòng họ, tại đây một số lệ bộ khác.

Nhà Hậu cung: Hậu cung với diện tích nhỏ hơn Tiền đường, là nơi thầm nghiêm. Trong cùng đặt một bộ long ngai – bài vị lớn thờ Thành Hoàng xung quanh có nhiều đồ thờ tự như kiếm thờ, hạc thờ, hộp sắc, mâm bồng,...Nhìn chung, việc bài trí nội thất tại di tích tập trung và tương đối hợp lý. Các di vật cũng được quan tâm bảo quản tốt.

Các di vật, cổ vật thuộc di tích:

Tại hậu cung: Ngai thờ; Bảo kiếm; Gươm; Mâm bồng; Hòm sắc; Hạc thờ; Chân nến;…

Tại Tiền đường: Ngai thờ; Kiệu thờ; Hoành phi; Câu đối; Biển bài; Gươm; Ống sắc; Bảng chúc;…

Hình ảnh Đền thờ Thần Trấn Đông

Đền thờ Thần Trấn Đông

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật