Tên di sản : Đền thờ Ngô Xuân Quỳnh
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 4197/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đền thờ Ngô Xuân Quỳnh “Ngô Phiên Tài Phiến”.
Theo gia phả Ngô Đại tộc Việt Nam, họ Ngô Yên Lai có xuất xứ từ Trảo - Nha đến đây xây đựng cơ nghiệp đã hơn 200 năm. Trong "Từ đường Ngô tộc có phối thờ Ngô Xuân Quỳnh". Ông là đời thứ 6 tại Yên Lai và là con cháu đời thứ 34 của Ngô Đại tộc Việt Nam. Nhưng với công lao và sự nghiệp, ông được phép lập đền thờ riêng bên cạnh Ngô Từ đường. Đền thờ Ngô Xuân Quỳnh ngoài sự tham gia của con cháu dòng tộc họ Ngô còn có sự tham gia kính trọng của nhân dân trong vùng, nhân dân những nơi mà ông làm quan cùng học trò và bạn hữu của ông. Nên ngôi nhà cũ bị đốt phá, không bao lâu sau , họ hàng, nhân dân, học trò, bạn hữu lại tiếp tục xây ngay trên nền đất cũ một ngôi đền thờ, gọi là "Ngô Phiên Tài Phiến" thờ Ngô Xuân Quỳnh. Đền dựng hướng Nam, thuộc thửa đất số 527 với diện tích 300m2.
Phía Bắc giáp thửa đất 450/500
Phía Nam giáp thửa đất 526/590
Phía Đông giáp thửa 528/230 và 529/320.
Phía Tây giáp thửa 523/270 (ngăn cách bởi đường làng). Từ đường họ Ngô thuộc thửa đất số 534 với diện tích 600m2:
Phía Bắc giáp thửa đất: 535/540m2
Phía Nam giáp thửa đất: 538/400m2.
Phía Đông giáp thửa đất 537/400 và 539/380.
Phía Tây giáp thủa 531/400 và 532/430.
Cấu trúc kiến trúc di tích:
Đền - Miếu Ngô Xuân Quỳnh:
Đền cấu trúc ngang theo hướng Nam gồm 1 ngôi 3 gian: gian giữa rộng 2,50m, gian bên tả (Đông) 2,30m, gian bên hữu (Tây) rộng 2,25m.
Nhà thờ kiến trúc theo kiểu cổ gồm 6 hàng cột: hai cột cái, hai cột quân, hiện trước hiên sau.
Kiến trúc theo kiểu giá chuông kẻ chuyền; cột cái trước đến cột cái sau rộng: 1,72m.
Cột cái đến cột quân trước 1m, cột cái đến cột quân sau 0,95m. Cột quân đến cột hiên trước 0,77m; gia hiến đua bẩy và nền hiên trước 0,60m. Cột quân đến cột hiên sau: 0,70m. Gia nền 0,40m gồm 3 gian 4 vì. Hai vì hồi 6 cột, hai vì giữa trốn hai cột cái trước, xung quanh 3 mặt liệt bản dùng sẽ có các đố đọc, ngạch ngưỡng cầu kỳ. Phía trước có cửa Bắc ban kiểu cổ gồm 3 chuồng, mỗi chuồng 6 cánh cửa.
Xà dọc cấu trúc xà thượng, xà hạ; ở đầu cột quân trước có 3 bức xuân hoa. Phía sau có 2 bức xuân hoa, hai bên chạm khắc cảnh vật rất kỹ xảo. Cảnh 4 mùa, cảnh phượng hàm thủ, hợp quả, tranh ngũ quả,...như những bức tranh thật là sống động.
Gian giữa: Phía trên treo bức Hoành phi cài 2 mét cao: 0,80m, sơn son, trang trí riềm trục vang. Viết chữ vàng, nội dung ca ngợi công đức của ông Ngô Xuân Quỳnh khi ông làm quan bố chánh tỉnh Quảng Bình (năm 1878 - 1880). Phía dưới là bức trướng của vua ban bằng gấp. Trên trường đề "Ngô phiền Đài Miếu".
Bài trí thờ: Gian giữa bố trí ba ban thờ: Ban thứ nhất (từ ngoài vào) là một án thư cũ, dài 1 mét, rộng 0,41m, cao 0,87m. Trên án thư đặt 1 lư hương đá thờ chung (gọi là Hội đồng). Ban thứ hai (Hương án giữa) gồm 2 mục vị thờ 2 vị.
1) Ông Ngô Xuân Thu (Bố của ông Quỳnh).
2) Ông Ngô Xuân Thược (anh ruột ông Quỳnh). Đặt trên hương án: dài 1,45m, rộng 0,65m; cao 1,05m.
Ban thứ ba (Hương án chính) thờ Ngô Xuân Quỳnh gồm một hương án, một long cung trong long cung có kiếm thờ, Mũ, áo ngư triều, có cân đai hài, long ngai giao ý, thần vị ông Quỳnh, có bình hương sứ. Hai chân đèn, hai chân nến, hai bình gỗ. Mâm lịch đĩa, chén, bát, mâm bồng, hòm đựng sắc chế. Phía trong có hộp đựng đối hài, cân đai, mũ, hòm đựng y phục gồm áo tia thêu rồng, áo hồng thêu rồng, cùng các bức gấm thêu.
Trong hòm sắc chế hiện còn 24 đạo sắc chế. Hòm đựng sách Hán Nôm và gia phả. Trống lệnh, giá chiêng. Hai bên có 2 chân nến cao 1,2m.
Có bộ bát biểu hiện còn 2 giáo, 2 mác, hai kiến, đại đao, quả chùy. Một độc bình sứ to, cao 0,35m. Đặc biệt là bộ long cung cổ có kích thước: cao 1,45m, rộng 0,85m, sâu 0,95m. Chạm trổ 4 mặt tinh xảo, giá long cung cũng chạm trổ cầu kỳ.
Còn bộ đòn kiệu, đòn võng chạm trổ đầu rồng tinh xảo, giá chuông, giá trống bằng gỗ cung chạm trổ cầu kỳ. Đồ thờ đặc biệt là cây kiếm là một kiểm sắt (kiểm vua ban hộ thân) đây là một vật kỷ niệm cuộc đời sự nghiệp.
Gian bên hữu: (phía tây) gồm sập hương án 2 cấp. Cấp trên thờ 2 người con ông Quỳnh đã hy sinh vì sự nghiệp theo nghĩa quân Cần vương là ông Ngô Xuân Khuê và Ngô Xuân Đỉnh.
Cấp dưới thờ các vị hàng cháu chắt, gồm các bình hương sứ và đồ thờ đơn giản không sơn: Mầm chè, đội đài lớn, đài nhỏ, mâm bồng.
Ngô tộc Tổ Miếu.
Nhà thờ họ Ngô Lang (thôn) Yên Lai, xã Trương Giang là nơi thờ các vị Tổ họ Ngô có ở Yên Lai cách đây 200 năm, nhưng đã bị Pháp đốt phá năm 1887, đến những năm đầu thế kỷ XX mới phục hồi. Là công trình kiến trúc gỗ, gạch xây dựng quy mô gồm 3 gian, dài 10m, rộng 8m. Xây dựng 2 lớp: Lớp trong cùng làm nơi thờ cuốn 3 cửa. Lớp ngoài phần tiền sảnh phía trên trang trí rất công phu ở giữa có bức Đại tự. "Ngô tộc Tổ Miếu". Phía trên có một bình lư hương hai bên có 2 rồng chầu. Hai cột nanh hai bên có 2 lư hương phía dưới có 2 bức tranh cảnh trong chuông bằng hình sông núi cây cảnh, chim thú.
Trên nóc đắp hình 1 nậm rượu to, hai bên là hoa văn hình trợn nối tiếp nhau - hai đầu hồi có dấu Tam Sơn.
Các cột phía trước cột kép ở giữa cột kép có các bức đắp câu đối, trang trí cầu kỳ nhưng rất hài hòa.
Đây là một công trình kiến trúc đậm đà bản sắc dân tộc.