Tên di sản : Đền thờ Lê Lộng
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 159/QĐ - UBND
Giới thiệu
Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng và dòng tộc thì trước đây được làm khá lớn khang trang trên một khuôn viên rộng lớn. Sau cách mạng di tích bị tháo gỡ phá đi khu chính tiền đường và nghênh môn và sau một số các cấu kiện trang trí chạm khắc trên các họa tiết cọt kèo ở xung quanh khu vực di tích. Ngày nay di tích đã được sửa sang tôn tạo lại nhà tiền đường theo kiểu kết cấu thời xưa.
Di tích được thiết kế theo kiểu hình chữ nhị, bao gồm hai dãy nhà, một nhà tiền đường và một nhà hậu cung. Hai dãy nhà liền nhau, ăn nối với nhau bởi một hệ thống máng.
Bước vào di tích là nhà bia tưởng niệm Thái úy Khang Quốc Công tiếp đến là bức bình phong án ngữ, trên bình phong có đắp hình hổ phù. Cả nhà bia và bình phong mới được tôn tạo lại nhìn chung không đặc sắc gì so với bề mặt kiến trúc, tạo tác. Tiếp đến là sân đền,nền sân có lát gạch được làm thấp hơn so với nền nhà tiền đường 0,25m. Hai bên sân đến trồng cây lưu niên, cổ thụ tạo nên cảnh trí yên bình thoáng đãng, trang nghiêm cho di tích. Tiền đường mới được trùng tu tôn tạo lại bằng hệ thống cột kèo bê tông cốt thép, kết cấu tiền đường chia làm ba gian, bao gồm hai hàng chân cột, hai cột cái và hai cột hiên trước và sau.
Nhà tiền đường được xây dựng hai hồi đốc, ở hai bên hồi trước sau không xây tường bao, để trống, tạo độ thông thoáng cho khu tiền đường ngôi đền.
Nối liền với tiền đường là hậu cung kiến trúc gỗ được xây dựng vào năm Tự Đức thứ 2 (1848). Toàn bộ kết cấu nội thất bên trong đền chia làm ba gian với bốn vì. Kết cấu vì theo kiểu chồng rường kẻ bẩy, mỗi vì có bốn cột, hai cột cái và cột hiên.
Kích thước chiều ngang, gian giữa rộng 2,60m; hai gian bên rộng 2,0m; từ chân cột đến hai bên đầu hồi nhà rộng 0,60m.
Tính theo chiều dọc bao gồm hàng chân cột, hai cột cái và hai cột quân. Từ cột hiên trước đến cột cái là 2,30m từ cột cái đến cột cái là 3,40m, từ cột cái đến cột hiên sau rộng 1,50m. Độ cao của cột cái xuống mặt nền là 3,75m, cột quân là 2,55m, từ thượng lương xuống nền 4,42m, đấu trụ cao 0,60m, vanh cột cái là 0,90m, cột quân 0,80m.
Từ hàng ngang cột cái phía trước được dừng bởi hệ thống ván dừng khung bạo, cửa bức bàn, tạo sự rộng rãi cho hiên trước và vừa vặn cho diện tích không gian hậu cung phía sau. Gian giữa hậu cung có treo bức đại tự “khai quốc nguyên Huân”, phía dưới đại tự là bức cửa võng chạm hình lưỡng long chầu nhật, hai bên cửa võng ra vào có hai bức ván dừng chạm hai con hạc đứng chầu, kích thước lớn bằng tiết diện của cửa bàn. Rồng được chạm nổi, đầu ngẩng cao như đang lao về phía trước đỡ lấy vầng thái dương. Thân mình uốn lượn, hòa cùng những đám mây. Mắt rồng mở to, miệng há, ngậm hạt chân châu, hai ria rút về phía trước, móng chân dài và nhọn đang trong tư thế cóp giữ. Hạc được chạm tư thế đứng trên mình quy hóa, đầu ngẩng cao, mỏ vươn dài như đang đón chào các thiện nhân ra vào.
Ở hai bên trái phải xà dùi, kẻ bẩy, cốn mê hiên trước nhà hậu cung có chạm hình tứ linh, xem tứ quý. Nét chạm thô tròn, bố trí ở những nơi thoáng mát dễ nhìn, trông rất hợp lí và vui mắt. Đặc biệt ở hai bên nồi cốn mê phải trái được chạm hai bức phù điêu tứ linh. Tất cả các con vật trong tư thế bay lượn, con nợ nhìn con kia như đang vườn nhau. Không gian của bức phù điêu tuy hẹp nhưng nhìn kĩ chúng ta thấy bố trí rất hài hòa, đặc biệt là các đường nét soi, kẻ, chạm khắc trên thân, mình, đầu các con vật rất tinh xảo, không thô nhưng cũng không rườm, con này nối đuôi quấn vào con kia. Nhìn chung những hình hài chạm trổ trên bức cửa võng hai bên cốn mê, bẩy kẽ nhà hậu cung phản ánh phong cách tạo tác thời Nguyễn.
Ngoài ra di tích còn giữ được một hương án cổ, trang trí chạm khắc hoa văn khá đẹp, cổ kính, đặc sắc về mặt thao tác, có giá trị nghệ thuật cao. Ở phần trên mặt của hương án người ta chạm hình hai con cá hóa long chầu vào nhau. Phía thân dưới mặt tiền đường của hương án được bố trí điểm xuyến tứ linh “Long ly quy phụng”, “tứ quý” tùng cúc trúc mai tạo vẻ sinh động cho phần tiền điện.
Thống kê hiện vật:
Cho đến ngày nay di tích con giữ được những hiện vật có giá trị sau:
Hương án đại (cổ) 1 cái
Án thờ cổ 2 cái
Đài rượu – nước 10 cái
Đèn ông gỗ 4 cái
Mâm bồng lớn 1 cái
Khay rượu 3 cái
Bát hương sứ 3 cái
Chấp sự đồng một bộ
Chấp kích cổ một bộ
Kỷ trống 2 cái
Hạc đồng 4 con
Chấp sự đồng nhỏ một bộ
Bát bửu một bộ
Câu đối cổ
Đại tự cổ
Gia phả dòng họ chữ Hán
Thừa khai sự tích lũy chữ Hán
Sổ khai ruộng đất chữ Hán
Các tập sắc phong:
Sắc phong năm Cảnh Hưng thứ 22, hai đạo (1762)
Sắc phong năm Minh Mệnh thứ 5 (1825)
Sắc phong Thiệu Trị thứ 4 (1844)
Sắc phong năm Tự Đức thứ 6 (1852)
Sắc phong năm Đồng Khánh thứ 2 (1887)
Sắc phong năm Duy Tân thứ 3 (1909).