Tên di sản : Đền thờ Lê Lâm
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 315/QĐ-CT
Giới thiệu
Vào khoảng năm 1962, trong phong trào bài phong trước đây, ngôi đền đã bị phá bỏ để lại nền nhà và các phần chân tảng sau này được chia để làm các công trình phúc lợi như: Trường học, hội trường,...
Sau năm 1995, nhân dân địa phương cùng dòng họ đã quyên góp tiền của để xây dựng lại ngôi đền thờ Lê Lâm trên nền đất cũ, quy mô kiến trúc của ngôi đền thờ hiện tại có diện tích 1000m2.
Ngôi đền quay hướng Nam, phía trước là cánh đồng kéo dài từ phía Đông là Mỏ Tấm, sang phía Tây là Tu Ruông. Phía trước cánh đồng có dòng suối bắt nguồn từ núi Nan và các mỏ nước từ núi Thiềng chảy ra. Nước ở đây quanh năm không bao giờ cạn. Vì vậy, luôn đủ nước để tưới tiêu cho ruộng canh tác của nhân dân địa phương. Phía sau ngôi đền là núi Thiềng làm điểm tựa, hai bên có dân cư sống đông đúc.
Theo đặc trưng phong cánh của đồng bào dân tộc ở đây thì ngôi đền thờ Lê Lâm được dựng hai gian trên nền đất cũ. Cấu trúc theo lối thông thường, với vì kèo luồng theo lối truyền thống dân tộc, bao gồm hai mái suốt cả hai gian. Đây là ngôi nhà mới được dựng, mấy chục năm nay, vật liệu xây dựng tổng hợp bao gồm gỗ, luồng, vôi vữa tổng hợp phần ngôi đền gồm 12 cột cái làm bằng gỗ và có 8 cây dũn để liên kết tạo thành mộ khung vững chắc.
Phía trên phần mái bao gồm các đòn tay luồng rải đều từ nóc xuống, dốc từ trên mái xuống là hàng rui bằng luống rải đều để lợp tranh. Bố cục trong đền như sau: Gian trong là nơi để đồ thờ và nơi tế lễ còn gian ngoài dùng để làm nơi hành lễ. Ngôi đền hiện nay nằm trên nền nhà hậu cung của ngôi đền cũ.
Cấu tạo tổng thể của ngôi đền Lê Lâm mang một phong cách truyền thống văn hoá của đồng bào dân tộc mường miền núi Thanh Hoá.
Nơi đây, hàng năm cứ vào 20/10, nhân dân trong xã Phùng Giáo lại tổ chức lễ hội tại đền thờ Lê Lâm theo lời kể của các cụ già làng, cứ vào ngày này dòng họ và nhân dân trong xã lại tập trung tại đền để thắp hương tưởng niệm và giao lưu văn hoá với các trò chơi như ném còn, nhảy sạp, múa hát quanh cây bông.
Tóm lại: Ngôi đền thờ Lê Lâm là một tổng thể hài hoà, trong đó khu thờ tự trang nghiêm.
Các hiện vật trong di tích:
Di tích đền thờ Phò Mã Đô uý Lê Lâm do thời gian và ảnh hưởng lớn của khí hậu nên bị xuống cấp nghiêm trọng, tuy vậy, con cháu trong dòng họ Lê vẫn còn lưu giữ được nhiều hiện vật có liên quan đến ngôi đền và nhân vật lịch sử.
Các hiện vật gồm có:
Bản tộc phả chữ Hán được biên soạn thời nhà Lê do Nguyễn Bính biên soạn.
Một quyển thần phả bằng chữ Hán.
Một đạo sắc phong của thời nhà Nguyễn năm Bảo Đại thứ mười (1935). Màu vàng có trang trí tứ linh và có dấu đỏ.
Một long ngai bằng gỗ sơn son thiếp vàng thờ Lê Lâm.
Một mâm bồng gỗ có đường kính 43cm, cao 31cm, sơn son thiếp vàng, trang trí long ly quy phượng.
Một hộp đựng sắc phong bằng gỗ và ống đựng. Sơn son thiếp vàng và trong trang trí hình lưỡng long chầu nguyệt.
Ba đài rượu bằng gỗ sơn son thiếp vàng.
Một chân đèn bằng gỗ cao 43cm, rộng 19,5cm được sơn son thiếp vàng.
Một quả chuông bằng kim loại đường kính 15cm, cao 16,5cm.
Hai ống cắm hương bằng gỗ: Sơn son thiếp vàng cao 26 cm, rộng 14cm.
Ba lư hương đá hình chữ nhật điêu khắc hình hổ phù cao 28cm.
Áo tế thêu hổ phù hai cái dùng để tế lễ.
Cầu vai áo hai cái bằng vải.
Còn lại 6 chân tảng đá có đường kính 30cm, rộng 11cm.
Thuỷ môn (hay cửa võng) một cái bằng vải thêu hoa lá.
Ngoài ra, trong ngôi đền còn một số đồ thờ khác như một số bát hương mới được bổ sung vào và một số đồ thờ hiện đang cất giữ trong nhà ông Trưởng họ.