Tên di sản : Đền thờ Lê Hiểm
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 921 QĐ/BT
Giới thiệu
Làng Đại Bằng Tộc có từ xưa, trong bản đồ thuộc Minh đã ghi Đại Bằng Tộc, căn cứ Hoàng Ngưu. Từ làng này đã phát triển thành 3 làng (xóm Lạc Bình, Thái Bình, Thừa Bình). 3 xóm hợp thành thôn Thái Sơn, thôn Thái Sơn cũng thờ chung 1 đền, 1 đình làng đó là thờ các vị: Lê Hiểm thuỵ Trung Định, Lê Hiêu thuỵ Tĩnh Giản, Lê Phụ thuỵ Trường Thọ.
Lê Hiểm cùng con trai là Lê Hiêu là những danh tướng binh giặc Ngô giải phóng giang sơn đất nước cùng với Lê Lợi khôi phục đất nước phồn vinh. Hai cha con ông có nhiều công lao được phong Lộc điền tại làng Đại Bằng Tộc, huyện Nông Cống. Tại đây, 2 cha con ông đã cùng với nhân dân khai phá mở mang lập ấp. Khi ông mất dân làng và con cháu trong họ lập đền thờ 2 ông. Lúc đầu quy mô còn nhỏ, sau mở rộng dần và hương khói đều đặn. Vào thời Hồng Đức Lê Hiêu có con là Lê Phụ làm quan đến thượng trụ quốc trấn ải các miền Sơn Nam, Lạng Sơn…và cũng bản lộc cho bản quán và họ hàng nên dân làng càng biết ơn nên đã lập đền đình thờ và coi hai ông Lê Hiểm, Lê Hiêu là Thành Hoàng làng. Khi Lê Phụ mất, cũng được tôn thờ xếp vào ngôi thứ 3 của làng.
Theo tư liệu thực tế, kiến trúc hiện tại còn của đình - đền Thừa Bình được lập vào cuối thời Lê Thánh Tông (1478), sau khi Lê Phụ mất, Lê Thánh Tông lấy bà Nguyễn Thị Kính phi Bà Kính Phi là Nguyễn Nhãn Mỹ - Đức Nghị, giữ chức đô đốc, thiêm sự.
Thực tế, đền - đình Thừa Bình được dựng lên để tôn thờ các vị anh hùng dân tộc có công với nước với dân. Đền xây dựng quy mô gồm 2 nhà ngang. Ngôi trước tiền hướng đông, là ngôi 5 gian, hiện nay, sụp đổ còn nền móng cũ. Ngôi sau 3 gian cùng hướng đông, ngăn cách giữa 2 ngôi có sân hẹp rộng 5m, dài 15m. Ngôi sau còn gọi là chính tẩm hay thượng điện là nơi thờ 3 vị: Lê Hiểm, Lê Hiêu, Lê Phụ. Chính giữa là Lê Hiểm, Lê Hiêu bên trái, Lê Phụ bên phải.
Cấu trúc kiến trúc: Bên phía Bắc (bên trái) là dãy Hoàng Nghiêu chạy dài từ tây qua đông; Phía Nam (bên phải) là cánh đồng; phía Tây là núi Tân Kim, phía trước có núi là cồn án tiền. Kết cấu vì kèo: Hai vì 3 hồi là giá chiêng kẻ chuyển bẩy, có đủ 4 cột: Hai cột cái, hai cột quân. Kẻ bẩy chạm trổ tinh vi hình hoa lá, chim thú theo kiểu tứ linh, tứ quý trên 2 đầu nóc, vì kèo có chạm hổ phù (kiến trúc thế kỉ XVI - XVII). Liên kết xà: có 8 hàng xà gồm xà thượng, xà hạ. Hai xà cột quân, hai xà cột cái.
Do hoàn cảnh biến thiên của lịch sử: Từ năm 1957-1958, toàn bộ đồ thờ được đưa về đây để thờ và trông coi, mỗi khi làng tế lễ thì lại rước đồ thờ, Thần vị ra đình để dự tế. Toàn bộ đồ thờ gồm Long ngai giao ỷ, mũ, kiếm thờ, thần vị, bát hương, đồ thờ khác: ống đựng hương hoa, đài chầu rượu chân nến, kiệu long đình, hộp đựng tranh, hộp đựng sổ sách gia phả, áo thờ, 25 đạo sắc qua các thời, có bộ bát biển, có biển thờ...
Đền thờ - Từ đường họ Lê: Hướng Đông lệch Nam 3 độ, là một ngôi nhà 3 gian, kiến trúc kiểu nhà thờ, có khuôn viên xung quanh. Hiện tại thuộc thửa đất số 234 với diện tích 310m2, dài 24m, rộng 11m; công trình xây dựng là 1 ngôi nhà 3 gian.