Tên di sản : Đền thờ Lê Đình Khiêm
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 166/QĐ - UBND
Giới thiệu
Đền - Miếu Hà Nữu được xây dựng từ thời Lý Thánh Tông đến thời Lý Nhân Tông, nhà vua chu cấp tiền của: tiền 90 quan, bạc 40 lạng và 3 súc lụa và phong sắc chỉ đặt Mỹ tư “Tối linh công chúa” phong “Đương Cảnh Thành Hoàng” tặng “Quốc Phi Hoàng Nương, Thượng Đẳng tối linh công chúa”. Giao cho 2 khu Hà Nữu: Nội – Ngoại lập “Chính linh từ” thờ phụng. Đồng thời Lê Đình Khiêm là bậc đô chỉ huy sứ, Đại tướng quân sắc phong “Hùng vũ Đại Vương” cùng phối thờ.
Đền miếu được xây dựng trên nền khu trang trại cũ của Lê Chiêu. Đền hướng Nam, phía trên có cảnh núi – sông, có hình thế “Rồng kẹp hổ” chầu về đền, bên hữu có núi Hổ, bên tả có một núi rồng kẹp hổ. Đền tựa hướng Bắc nhìn về hướng Nam. Phía trước có thế tự thủy vào Sao Kim, bên tả mệnh Kim, hữu mệnh Mộc, mạch đất hướng càn, đây là vùng “Đất thiêng”. Di tích nằm trên thửa đất số 560 có chiều dài 25m, chiều rộng 20m, diện tích 500m2.
Đền xây 3 gian, sau có 2 gian, kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, hướng Nam phía trước có ao đền, đến cổng, sân, sân lát gạch.
Bài trí thờ: Chính tẩm 2 gian gọi là miếu thờ Châu Ngoạn Nương. “Tối linh công chúa – Phúc Thần” gian giữa thờ Hội đồng hàng quan gồm: Lê Chiêu Phủ Quân (Bố Châu Ngoạn Nương) và bà Nguyễn Thị (Mẹ Châu Ngoạn) tiếp đến là các vị tiên tổ họ Lê. Bên tả là thờ Lê Đình Khiêm.
Đền thờ hiện nay còn 4 long ngai ý thần vị. Một long ngai giao ý Thánh vị của Lê Chiêu phù quân và Hoàng Tỷ Nguyễn Thị
Một long ngai giao ỷ thần vị của Lê Đình Khiêm.
Hiện vật trong di tích:
Hương án Hậu cung và Long ngai Thần vị Châu Ngoạn Nương; Bộ Tam sự; ống hương - ống hoa, 4 đài trầu rượu, hai ống hương, hoa, hai nến, hai đèn, khay mịch, hai khay chè, hòm sắc, hòm đựng thần Phả - gia phả, chúc bản dán chúc văn, 2 mâm bồng, hai kiếm thờ bằng gỗ, bốn nậm rượu bằng sứ, gian bên hữu có một tắc tải dùng để đựng đồ thờ.
Cấu trúc, kiến trúc di tích
Nhà tiền đường dài 7,6m, rộng 5m2, chia thành 3 gian, gian giữa dài 2,92m, gian bên tả dài 2,40m, gian bên hữu dài 2,30m. Khoảng cách cột cái đến cột cái 1,70m, cột cái đến cột quân phía trước 1,05m, phía sau 1,07m, hiên trước rộng 1,20m, hiên sau rộng 0,98m. Kết cấu vì kèo: hai vì giữa trốn cột cái trước, hai vì bên đủ 6 cột. Đường kính cột cái 0,25m, cột quân 0,22m, cột hiên 0,18m, vì kèo bên kết cấu theo kiểu chồng rường kẻ bẩy trước, con ngang phía sau. Hai vì giữa kèo đón, bẩy trước sau. Hai gian hậu cung kèo đón trốn cột cái, chỉ có 2 cột quân, hai cột hiên, vách dừng ván.
Mỗi gian từ 2,20m đến 2,25m, cấu trúc đơn giản cho thoáng rộng.
Nhìn chung quy mô kiến trúc đền – miếu đơn giản, đền miếu thời Lý bị hủy hoại nhiều chỉ còn nền móng, di tích được trùng tu thời Nguyễn thế kỷ 18 – 19.
Ngoài khu đền thờ ở hai khu Hà Nữu còn lăng mộ của các vị. Lăng mộ đặt trên 2 khu ở nơi cao ráo.
Phần mộ ở núi Long đầu sơn. Mộ bố ở trong khu Hà Nữu trang Ngư phương. Mộ mẹ ở ngoài khu Hà Nữu trang Thạch Phương. Mộ các vị tiên tổ ở trạch hương xứ, Hạch cốc xứ, Hà mộ xứ, văn chỉ xứ, mã phủ xứ, riêng ông Hùng Vũ Đại Vương Lê Đình Khiêm hy sinh ở chiến trận chỉ có mộ phong tạo Hạch cốc xứ.