Tên di sản : Đền Vực Bưu
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 3837/QĐ-UBND
Giới thiệu
Khu di tích đền Vực Bưu được toạ lạc trên một gò đất cao rộng 3.032m2. Bên phải đền là cánh đồng Sao Sa thấp hơn so với gò đền đến 1m. Đằng sau đền là Vực Bưu - khúc sông cổ viền quanh và chạy dài từ Nông Cống - Tân Ninh đến sông Nhà Lê (tức Sông Nhơm). Phía trước đến là sông nhà Lê uốn lượn như hình rồng thiêng. Còn ở phía bắc là địa phận giáp với làng Vân Cổn xã Vân Sơn. Trước đây, khu vực đền Vực Bưu này là khu vực thờ chung của dân các làng trong, ngoài tổng vì sự tối linh thiêng của nó.
Về sông Vực Bưu, chỉ tính từ xã Vân Sơn - Thái Hoà - Tân Ninh - về Nông Cống đã có chiều dài tới 7, 8km. Có thể đây là dòng sông cổ bắt nguồn từ Ngàn Nưa xuống mà trong thế kỷ X, Lê Hoàn đã từng lợi dụng để khơi rộng và đào nối với con kênh đào (tức Sông nhà Lê), tạo ra sự thông thương với các vùng, đồng thời giải quyết việc tiêu úng từ vùng rừng núi Ngàn Nưa xuống.
Từ xưa tới nay, đoạn sông Vực Bưu này không bao giờ cạn. Lòng sông rộng tới hơn 100m và sâu trung bình từ 3-5m, còn về mùa mưa, mực nước bình quân từ 7-8m. Có một điều đặc biệt là chỗ khu vực đền thờ, lòng sông có nhiều lèn đá và hốc đá ngầm với vô số mạch nước ngầm phun trào, tạo ra những xoáy nước trên bề mặt. Có nhẽ vì vậy mà chỗ này mới được gọi là Vực Bưu chăng. Nước ở Vực Bưu quanh năm trong vắt. Nhìn quang cảnh thật nên thơ và đẹp đẽ. Những hôm trời quang mây tạnh, nếu dùng thuyền du ngoạn cảnh trí trên sông thì thú vị biết bao.
Sông Vực Bưu cũng là nguồn cá, tôm vô tận, có nhiều con cá đánh được nặng tới vài yến.
Gò đất đền Vực Bưu được sông Vực Bưu, Sông nhà Lê lượn song song ở hai phía trước và sau đã nổi vọt lên như một khoảnh rừng với rất nhiều cây cao, bóng cả.
Với địa thế độc đáo, Vực Bưu vốn từ xưa đã rất nổi tiếng là nơi thắng địa linh thiêng. Vì vậy, đây là địa điểm du khách gần, xa đến tụ hội để chiêm ngưỡng rất đông.
Không biết xưa kia quy mô kiến trúc của đền Vực Bưu rộng, hẹp đến đâu. Hiện tại ở đây chỉ còn nhóm kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá lộ thiên bề thế ở nền đất cũ của đền Vực Bưu.
Theo các cụ địa phương cho biết thì đền Vực Bưu thời kháng chiến chống Pháp đã được sử dụng làm nơi tập kết vật liệu của xưởng quân giới Phạm Hồng Thái. Vì có nhiều cây cao bóng cả và kín đáo mà đến Vực Bưu không hề bị máy bay địch phát hiện và bắn phá. Sau hoà bình lập lại (1954), thực hiện việc chống mê tín dị đoan, toàn bộ công trình kiến trúc của đền Vực Bưu đã bị tháo dỡ để sử dụng vào việc khác để nơi đây nhanh chóng trở nên hoang phế. Nhưng rất may là nhóm kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá ngoài trời lại vẫn còn nguyên trạng như ngai thờ, sập thờ, ngựa đá, bát hương, rồng đá, chân tảng, thêm bậc, v.v...
Hiện tại đây là nơi thờ lộ thiên ở ngoài trời rất độc đáo. Tất cả đều xếp đặt thứ tự trên một khuôn viên nền móng có chiều rộng 6,4m và dài 18m. Xung quanh là cây cối um tùm.
Từ ngoài nhìn vào đều thấy rõ toàn bộ kiến trúc hiện còn. Đầu tiên là thềm bậc tam cấp được kê bằng các phiến đá tảng được đẽo gọt phẳng phiu. Thêm bậc tam cấp có chiều rộng 2,50m. Các viên đá tảng có viên dài, có viên ngắn khác nhau, trong đó có viên dài nhất là trên 1m, còn các viên khác chỉ có kích thước 0,50 - 0,60m trở xuống. Mỗi thềm bậc chỉ rộng 0,24m và cao 0,20m những bước lên bước xuống vẫn rất dễ dàng.
Ở hai phía thêm bậc tam cấp là đôi rồng đá có chiều dài 0,84m, chiều cao 0,40m và dày 0,10m. Đây là đôi rồng bậc thềm không lớn lắm và xếp đặt không đúng cách (có nhẽ là do mới được kê lại gần đây vì thềm bậc làm lấp một phần thân dưới của rồng đá). Đôi rồng này được đục chạm đơn giản và không cầu kỳ lắm. Tuy vậy đây vẫn là đôi rồng khoẻ khoắn, hoàn hảo với đầy đủ các bộ phận đầu, mắt, vây, đuôi, chân rất khoẻ khoắn.
Tiếp vào trong là đôi ngựa chầu ở hai bên, bố cục ngang và hướng đầu vào nhau. Cả hai ngựa đá đều được chạm khắc, đẽo gọt công phu, hoàn chỉnh như ngựa thật. Từ mồm miệng, mắt, mũi, tai, đuôi, ngực, bụng đến dây cương, yên ngựa, vv...đều rất sống động và rất có hồn. Đây quả là hai tác phẩm điêu khắc đá độc đáo có giá trị cao về nghệ thuật. Từ các góc độ trước, sau hoặc nhìn nghiêng, nhìn thẳng và hai bên, chúng ta đều có sự cảm nhận thán phục về cách thể hiện của các thợ đục đá ngày xưa quả là tài ba hết mức. Tuy là đôi ngựa chầu, nhưng với cách thể hiện khéo léo, chúng ta thấy chúng như sắp phi lên vậy. Vì vậy, đội ngựa tưởng như ở trạng thái tĩnh mà rất động. Đó mới là nét nổi bật và độc đáo của tác phẩm đá ở đây.
Về kích thước, ngựa đá có chiều cao 0,65m, dài 0,87m và dày 0,25m. Riêng phần chân đế có chiều cao 0,15m, dài 0,99m và rộng 0,30m. Tuy kích thước không phải là lớn nhưng nhìn dáng vẻ, bố cục, chúng ta vẫn cảm nhận đôi ngựa khá bề thế, vừa có nét khoẻ khoắn mà cũng vừa rất uyển chuyển.
Bên trong đôi ngựa chầu là đến sập thờ bằng đá. Sập đá có chiều cao 0,48m, dài 1,48m và rộng 1,13m. Mặt sập như vậy là khá lớn được kê trên các chân tảng đá xếp liền nhau một cách vững chãi.
Liên với sập đá là chiếc ngai thờ bằng đá khá đồ sộ mà chúng ta ít có dịp trông thấy.
Ngai thờ bằng đá có hai phần: thân ngai và chân ngai. Phần thân ngai có chiều rộng 1,37m, chiều dọc 0,90m và chiều cao nhất 0,85m. Còn phần chân ngai rộng 1,4m, dọc 1,06m và cao 0,70m.
Riêng phần thân ngai được đục từ một khối đá nguyên cỡ lớn gồm tay ngai, lưng ngai và mặt ngai. Mặt chính diện của làng ngai được chạm hình mặt trời và xung quanh là hình các tia lửa và vân mây quấn quýt vào nhau. Đôi tay ngai là hai con ly cách điệu và uyển chuyển.
Toàn bộ thân ngai được kê trên 4 chân đá hình vuông rất vững chắc. Bức dạ cá ở phía trước và hai bức dạ cá ở hai bên được đục và ăn ngàm vào 4 Cột đá có tác dụng làm cho chân đá đứng vững và không bị xiêu vẹo. Bức đá phía trước được chạm hình hổ phù, còn hai bức hai bên được chạm hình vận mây và hoa lá cách điệu.
Có thể nói, ngai thờ đá ở đây có chức năng như một bàn thờ chính ở khu thờ lộ thiên này. Ở mặt dưới của ngài được để một bát hương đá tròn cỡ lớn. Nhìn từ bên ngoài vào, chúng ta thấy ngai thờ đá ở đây rất bề thế và hiếm thấy chỗ khác. Và đây mới thực sự là một tác phẩm điêu khắc có giá trị lớn cả về thẩm mỹ và nghệ thuật điêu khắc. Chính nhờ có sự bề thế và bố cục độc đáo mà ngai thờ đá này đã trở thành một tâm điểm linh thiêng chính như ở chỗ cung cấm của đền thờ vậy. Khi thắp hương, mọi người phải leo lên bệ gạch bó xung quanh chân ngai mới có thể cắm hương được.
Ngoài đôi ngựa đá, sập đá và ngai thờ đá như đã nêu ở trên, tại đây hiện vẫn còn rất nhiều hiện vật đá như bát hương đá các loại, chân tảng đá, chân đèn đá, đế cắm cờ, tàn, lộng và mâm bồng đá, vv...có thể liệt kê ra như sau:
01 mâm bồng đá cao 0,26m, đường kính mặt 0,32m.
05 bát hương đá hình tròn với các kích cỡ khác nhau.
06 bát hương đá hình vuông có các kích thước khác nhau.
02 chân đèn đá
02 đế cắm cờ, tàn, lộng
10 chân đá tảng hình vuông các cỡ
2 chân đá tảng hình tròn
1 bát hương gốm có cánh, vv..
Nhìn kiểu dáng và cách thức đục, chạm, trang trí trên tất cả hiện vật và tác phẩm điêu khắc đá còn lại ở đền Vực Bưu, có thể nhận biết được niên đại của nó là ở thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII - XVIII). Điều đó chứng tỏ di tích đền Vực Bưu là một di tích đã có từ thời Lê.
Trong lần khảo sát hiện trường tại di tích, dân địa phương còn chỉ nhiều chỗ còn hiện vật, di vật đá bị vứt bỏ trước đây (như chỗ ruộng Sao Sa sát Vực Bưu và những chỗ xung quanh khác,...mà dân chưa có điều kiện thu thập, đào bới và vớt hết được. Ngoài ra còn một bia bên trái đã bị sụt lở xuống vực Bưu.
Ở bên cạnh khu thờ lộ thiên bằng đá, dẫu địa phương còn cho dựng tạm một ngôi nhà thờ nhỏ cấp 4 để cúng cầu những lúc mưa, nắng. Trong nhà vẫn còn một bàn thờ và ngai thờ cổ nhưng cũng đã bị gãy, mục.
Mặc dù toàn bộ kiến trúc gỗ của đền Vực Bưu đã bị biến mất, song với tất cả những gì còn lại như nhóm kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá đã nêu trên đều trở nên vô giá và ý nghĩa vô cùng. Và chỉ với những gì còn lại, di tích đền Vực Bưu vẫn rất xứng đáng được công nhận, bảo vệ để phát huy tác dụng.
Loại di tích:
Với tất cả những gì còn lại, nhóm kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá đền Vực Bưu cần được xếp vào loại di tích kiến trúc nghệ thuật.