Tên di sản : Đền Thánh Mẫu
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 345/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đền Thánh Mẫu trong tiềm thức của người dân:
Theo các cụ cao tuổi ở địa phương cho biết đền Thánh Mẫu xưa kia gồm có tiền đường 5 gian và hai gian hậu cung được kết cấu theo hình chữ Đinh (J), nhưng do nhận thức sai lầm, trong đó một phần cũng như do nhu cầu phục vụ kháng chiến kiến quốc nên ngôi đền cũ đã được tháo dỡ di dời đến vị trí khác dùng làm công trình Trạm y tế của xã Thạch Bình, toàn bộ gạch ngói đều được chuyển đi, chỉ còn lại nền đất.
Đền Thánh Mẫu ngày nay:
Năm 2007, toàn bộ bộ khung gỗ của đền Thánh Mẫu được chuyển về vị trí cũ (làng Án Sơn hiện nay), đền tọa lạc ở trung tâm làng Án Đổ, quay mặt hướng Đông - Nam, tựa lưng vào đồi, trước mặt và hai bên là làng xóm trù phú, bao bọc quanh đền tạo nên vẻ linh thiêng huyền bí. Quy mô đền gồm có 3 gian 2 chái, tường hồi bít đốc, gồm 6 vì kèo, trong đó có 4 bộ vì kèo và 2 vì kèo khuyết (kèo vơ). Khi di rời về vị trí hiện nay, có một số cấu kiện gỗ cũ bị hư hỏng không dùng được nữa nên đã thay mới, trong đó có cả thượng lương, tuy nhiên phần chữ Hán thượng lương theo các cụ cao tuổi trong làng cho biết phần chữ và nội dung vẫn giữ nguyên và được viết thêm phần niên đại tu sửa mới hiện nay.
Về cấu trúc đền thờ: gồm có 3 gian hai chái kích thước như sau
Tường đốc dày 0,25m; chái thứ nhất dài 1,90m; gian thứ nhất dài 2,63m; gian chính giữa dài 2,98m; gian thứ ba dài 2,64m; chái thứ hai dài 2,05m, tường dầy 0,25m.
Chiều ngang từ ngoài vào trong: Hiên rộng 0,7m; từ tim cột long cốt đến tim cột cái trước dài 1,03m; tim cột cái trước đến tim cột cái sau 2,24m; từ tim cột cái sau đến tim cột quân sau 1,03m; từ tim cột quân sau đến tường hậu là 0,25m, tường hậu dầy 0,25m.
Đền thờ gồm có 6 bộ vì làm đăng đối nhau theo từng cặp; vì 1 và 6, bộ vì 2 và 5, bộ vì 3 và 4.
Vì kèo 1 và 6: Hai vì kèo này là hai kèo suốt, không có cột đỡ được gác trực tiếp lên tường đốc.
Bốn vì kèo chính của công trình đều có điểm giống nhau là mỗi vì có 4 cột trong đó liên kết các cột quân với các cột cái là xà ngang; xà này gắn kết đầu cột quân và thân cột cái. Tổng số cột của đền thờ là 16 cột: 8 cột cái và 8 cột quân trong đó có kích thước hai cột cái chiều cao 3,52m, đường kính 0,27m; hai cột này đứng trên đá tảng vuông 0,38m, mặt gương tảng 0,32m; hai cột quân chiều cao 2,78m, đường kính cột 0,22m, đều được đứng trên đá tảng vuông 0,32m, mặt gương tảng 0,26m.
Bộ vì kèo thứ 2 và 5 kết cấu cân đối trước sau theo kiểu giá chiêng kẻ chuyền, bẩy trước, sau: Từ câu đầu nối hai đầu cột cái trên lưng có hai bát đấu đỡ hai trụ đứng, hai trụ này để rướng bụng lợn, phía trên có hai đấu đỡ con rường trên, con rường này ngắn hơn và thu hẹp theo chóp mái, trên lưng con rường này là đấu kê guốc đỡ thượng lương, đầu hai trụ đứng xuống hai cột cái trước và sau là kẻ ngồi; kẻ này ngồi trên lưng câu đầu, từ hai cột cái xuống đến hai cột quân trước, sau là kẻ ngồi, kẻ này đầu trên lồng qua cột cái, nghé kẻ đỡ câu đầu, đầu dưới ngồi trên xà ngang; từ cột quân xuống là bẩy, đầu trên của bẩy lồng qua cột quân, nghé bẩy đỡ xà ngang, trên lưng các kẻ và con rường đều ngậm ván dong để điều chỉ độ dốc và độ phẳng của mái nhà.
Trịnh Thị Tâm, cử nhân Hán Nôm, Ban Quản lý Di tích và Danh thắng Thanh Hóa, phiên âm và dịch nghĩa.
Bộ vì thứ 3 và vì 4: là hai bộ vì chính của công trình. Hai bộ vì này làm đăng đối nhau về kiểu dáng kiến trúc cũng như đề tài trang trí gồm long - ly – quy - phượng.
Bộ vì thứ 3 đỉnh chóp là guốc đỡ thượng lương, phía dưới là ván mê ghép với nhau thành một khối, mặt trong được chạm nổi hình hổ phù xen lẫn vân mây sóng nước, các lỗ hoành được làm tròn có các cánh hoa cúc xung quanh, bức ván mê. Từ cột cái đến cột quân trước chạm hình long (Hồng) ẩn trong các đám mây, lỗ các hoành được tiện tròn xung quanh có đường viền hình hoa cúc, bẩy trước mặt trong được chạm nổi hình rồng đầu hướng vào trong xen lẫn hoa văn vân mây, bức ván mê từ cột cái sau xuống đến cột quân sau chạm nổi hình quy (rùa) trong đầm sen xen lẫn các hoa văn sóng nước, xung quanh lỗ các con rường hình tròn xung quanh chạm hình hoa cúc, từ cột con xuống tường hậu là bẩy mặt trong được chạm hoa lá cách điệu.
Bộ vì thứ 4 đăng đối với bộ vì thứ 3; các họa tiết đối nhau chỉ khác hai mảng chạm khắc ở bức ván mê từ cột cái đến cột quân trước chạm hình ly (lân) ẩn trong các đám mây, bức ván mê từ cột cái sau xuống đến cột quân sau chạm nổi hình chim phượng xung quanh là hoa văn kỷ hà và vân mây, sóng nước.
Các bộ vì được liên kết với nhau bằng hệ thống xà thượng (xà thế hoành) và xà hạ (xà đại), nhưng ở đền thờ có duy nhất một xà hạ nối vì 3 và vì 4 có chạm nổi rồng chầu mặt nhật với đường nét hoa văn thanh thoát, rồng được ẩn trong trong mây, quay đầu vào trong thế chầu vào; tuy nhiên phần đầu rồng đã bị mất, đầu rồng và mặt nhất hiện nay đã được sửa lại.
Hệ thống thờ tự:
Trong đền thờ hiện nay gồm có hương án thờ, trên cùng thờ Thánh Mẫu (Nàng Nga) có long ngai, bài vị, bát hương và các đồ tế lễ khác.
Hương án giữa thấp hơn, trên hương án này đặt tượng thờ Tam tòa thánh Thánh Mẫu, trên hương án gồm có ba tượng là Thánh Mẫu Thượng Ngàn mặc áo xanh, Thánh Mẫu Thiên mặc áo đỏ, Thánh Mẫu Thoải mặc áo trắng.
Hương án ngoài có kích thước cao bằng hương án giữa; trên hương án đặt bát hương hội đồng, cùng các đồ tế lễ.