Tên di sản : Đền Tam
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 4082/QĐ-UBND
Giới thiệu
Là một ngôi nhà 3 gian và một hậu cung, tường được nối liền nhưng mái lại độc lập với nhau. Tất cả đều được làm theo kiểu vòm cuốn mang phong cách thời Nguyễn muộn. Toàn bộ khuôn viên được xây tường xung quanh, có cổng đóng mở để bảo vệ di tích khỏi bị xâm hại.
Hiện nay, đền gồm có các hạng mục sau: Cổng, sân, đền chính và nhà mẫu mới được xây dựng.
Cổng: Ngõ của đền thờ được mở ra phía trước, để ra vào khuôn viên phải qua một chiếc cổng. Mặt chính quay hướng Nam, nằm sát đường liên thôn, nhìn ra sông Lèn (đoạn chảy qua làng Thanh Lãng được gọi là Lạch Sung), được xây bằng các chất liệu gạch, vôi vữa và hai cánh cổng bằng sắt. Cổng có chiều cao 3,3m, chiều rộng 2,1m, hai bên được đắp thành hai trụ biểu, có đôi câu đối được đắp nổi:
Tổ phụ tam linh quy nhất chốn
Tôn tư tập phúc kính báo đền.
Phía trên của trụ biểu được đắp đôi sư tử quay đầu vào nhau.
Qua cổng đến sân đền: sân được lát bằng gạch bát, theo lối chữ công (25 x 25). Sân có chiều rộng 16m, chiều dài 9,3m. Hai bên sân giáp cổng đền được trồng hai cây nhãn, tuy tuổi chưa nhiều nhưng bóng đã toả ra che mát cho khu vực cổng và sân đền, tạo cho du khách cảm giác mát mẻ, thanh tịnh khi vào viếng đền.
Đền Chính: là ngôi nhà ba gian và một hậu cung, quay hướng nam. Đền được xây dựng theo kiểu kiến trúc cuốn vòm và không có hiên, kết cấu hình chữ Đinh (J) với hai tầng mái, có chiều ngang 7,35m; chiều rộng 4,5m, tổng diện tích là 33,05m2. Tất cả đều được xây dựng bằng gạch và vôi vữa, mỗi gian có một cửa ra vào, tạo cho ngôi nhà thông thoáng và thuận tiện cho khi cúng tế. Hai cửa bên, mỗi cửa cao 1,7m, rộng 1,03m, cửa giữa cao 1,83m, rộng 1,31m. Cánh cửa được làm bằng các tấm gỗ ghép lại.
Mặt trước của đền được trang trí tương đối cầu kỳ nhưng lại rất thanh nhã: Tuy chỉ có 3 gian nhà, nhưng lại xây thành 6 cây cột nanh có nhiệm vụ đỡ mái, cột nanh được đắp thành các khuông nhật và trên đó được ghi các chữ Hán.
Phía trên (mé ngoài) của hai cửa bên, được vẽ hình 2 con đại bàng đang sải cánh, đầu hướng vào nhau; ở giữa là các vành khuyên, bên trong vành khuyên được ghi hàng chữ Hán: Vạn Thọ Vô Cương.
Bên trên cột nanh là tầng mái, lợp bằng ngói mũi. Phía trên tầng mái được đắp các khuông hình chữ nhật. Hai phía đầu hồi được trang trí các cây mai, tùng rất tinh xảo. Tiếp đến là hai khuông nhật, bên trong được đắp hai con rồng chầu, khuông nhật ở giữa là hai chữ Hán: Phúc Thần.
Bên trên các khuông nhật là mái của đền, mái được lợp bằng ngói mũi, đại bờ được đắp bằng vôi vữa để tránh cho đền khỏi bị mưa nắng làm hư hại. Khác với các di tích khác, rồng chầu được đắp ở đại bờ phần gian giữa của công trình, thì ở đền Tam, hai con rồng cách điệu lại được đắp cong trên đậy bờ ở hai phía hồi. Tường hồi được cấu trúc kiểu giả sơn.
Hệ thống thờ tự trong di tích:
Bài trí đồ thờ ở tiền đường: tiền đường được bài trí một hương án thờ công đồng tại gian giữa. Hương án này có thể di chuyển bởi hàng năm, vào các ngày tế lễ, hương án này được mang ra sân cúng tế để bà con du khách vào dâng hương cho thuận tiện, rộng rãi. Hương án được làm bằng gỗ, có chiều cao 1,15m, chiều dài 1,23m, chiều rộng 0,97m. Trên hương án (từ trong ra) một bát hương sứ mới; một khay mịch cũ; hai ống hương cũ và hạc gỗ, chân nến và lộc bình mới.
Sau hương án ở tiền đường là lối vào hậu cung: bằng 3 cửa, cửa giữa rộng 0,81m, cao 1,65m; hai cửa bên rộng 0,53m, cao 1,62m, các cửa ở đây không có cánh. Hậu cung dài 3,47m; rộng 3,4m; tổng diện tích của hậu cung là 11,8m2. Hậu cung cũng được xây dựng hoàn toàn bằng gạch và vôi vữa, làm theo kiểu vòm cuốn.
Bài trí đồ thờ trong hậu cung: hậu cung được xây dựng một ban thờ, ban thờ có chiều dài 2,1m, chiều rộng 2,23m, được bài trí thành 3 lớp, thấp dần từ trong ra:
Lớp bàn thứ nhất: Là ba ngai thờ cũ (1 cái to ở giữa với chiều cao 90 cm, chiều rộng 45cm; hai cái loại vừa hai bên có chiều cao 70cm, chiều rộng 35cm), được làm bằng chất liệu gỗ, bên trong là bài vị của ba vị thần ngồi ngang nhau ở vị trí cao nhất, gần sát vách hậu cung.
Tiếp đến là 3 bát hương sứ mới; hai hạc gỗ và có 1 đao, 2 kiếm thờ. Lớp bàn thứ hai: là một bát hương đồng cũ, loại to, đường kính miệng 25cm, có rồng chầu mặt nguyệt, đây là bát hương thờ công đồng; tiếp đến là một khay mịch gỗ hai tầng, loại cũ và hai ống dắt đũa.
Lớp thứ ba: Là một lư hương, hai chân nến, hai con hạc bằng đồng mới; 1 khay mịch cũ, chất liệu gỗ.
Nhà mẫu: là ngôi nhà mới được xây dựng ở phía tây của đền chính, sát với đường liên thôn. Nhà có kết cấu dọc, xây dựng bằng gạch, ngói và vôi vữa, kiểu vòm cuốn. Nhà có chiều dài 7,37m; rộng 2,69m. Để vào nhà mẫu có một cửa ra vào, cửa rộng 1,27m; cao 1,87m.
Các hiện vật trong di tích.
Trải qua thời gian dài tồn tại, một số hiện vật tại di tích đã bị mất mát và hư hỏng. Tuy nhiên, nhân dân địa phương đã bảo vệ và gìn giữ được tương đối các hiện vật cổ của đền và từng bước bổ sung thêm một số đồ thờ cần thiết vào trong đền.
Hi���n nay, đền Tam còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý rất có giá trị.
Hiện vật cũ: - 09 đạo sắc phong thời Lê - Nguyễn; 03 ngai thờ và bài vị gỗ; 08 mâm bồng gỗ (trong đó có 1 cái lớn); 02 bát hương đồng; 12 cái đài nước gỗ; 02 cái chân lọng đá; 01 tượng gỗ; 01 rồng đá.
Hiện vật mới:
Tượng gỗ: 03 pho; Mâm bồng trung: 01 cái; Mâm bồng tiểu: 03 cái; Đài nước gỗ: 06 cái; Lọ hoa: 04 cái; Bát hương sứ: 06 cái; Cây nến gỗ: 06 cái; Đại tự: 01 cái; Lộc bình sứ loại to: 02 cái; Chân nến đồng: 04 cái; Lư đồng: 02 cái; Hạc đồng: 04 con.
Ngoài ra còn một số đá kê chân tảng.