Tên di sản : Đền Cùng
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 2994/QĐ-UBND
Giới thiệu
Theo các cụ già ở làng cho biết Đền Cùng trước năm 1953 (khi máy bay giặc Pháp chưa đánh bom làm sập) được xây dựng có quy mô to lớn, bề thế gồm 5 gian Tiền đường và 3 gian Hậu cung. Vật liệu chủ yếu của bộ khung làm bằng gỗ tốt, tường xây gạch, trát vôi vữa. Các bộ phận gỗ của kiến trúc được chạm trổ trang trí những hình ảnh điêu khắc truyền thống. Ngoại vi có trụ biểu làm cổng. Nội thất bài trí có 3 án thờ. Ngôi đền này đã bị máy bay của thực dân Pháp ném bom và sập đổ hoàn toàn vào năm 1953 và được xây dựng lại vào những năm 80 của thế kỷ trước gồm có các hạng mục công trình: Đền chính; Lầu Cô, Lầu Cậu, Nhà che bia, nằm trên sườn núi Liên Sơn, sát liền kề sông Mã, với cảnh trí thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng, hùng võ.
Không gian của di tích theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình sau:
Bậc tam cấp: đền Cùng nằm ở sườn núi Liên Sơn, cách đường chân núi khoảng 6,5m, vì vậy trước khi vào đền, du khách phải đi qua 17 bậc Tam cấp được xây bằng gạch trát xi măng chắc chắn. Ở hai bên bậc Tam cấp được đặt hai con rồng (bằng xi măng) chạy hướng đầu ra phía ngoài.
Sân đền: bước qua bậc Tam cấp là đến Sân đền. Sân có kích thước dài 8m, rộng 5m, nền được đổ đất nện, Xung quanh được xây tường bao bọc có các bức xuân hoa kiểu hoa chanh.
Đền Chính: là một ngôi nhà có kết cấu kiến trúc mặt bằng chữ Đinh (J), thu hồi bít đốc gồm có nhà Tiền đường và Hậu cung. Đền ngoảnh về hướng Tây.
Nhà Tiền đường: được cấu trúc 3 gian, có kích thước chiều dài 7,83m, lòng nhà rộng 3,5m, hiên rộng 1,2m. Kết cấu vì kèo: có 4 vì được làm biến thể theo vì kèo truyền thống, không có hệ thống cột. Kết cấu cơ bản gồm có Quá giang nằm trên tường đốc; phía trên Quá giang là hệ thống Đấu trụ, Câu đầu, Kèo suốt làm nên kết cấu của một bộ vì. Về kết cấu, hai vì giữa giống nhau về kiểu liên kết; hai vì sát hồi chỉ khác nhau ở chỗ Quá giang được thay thế bằng bức tường vỉ xây dật cấp làm chỗ đứng chân cho hai đấu trụ vuông.
Phía ngoài sát giọt gianh được mở 3 cửa ra vào, xây vòm cuốn, hệ thống các gian được ngăn cách bởi các cột vuông. Phía trên ở sát mái được đắp một biển đề hình vuông, trên bề mặt đắp chữ Hán nổi "Liên Sơn linh từ". Mái nhà Tiền đường lợp ngói máy; hoành tải, rui, mè bằng luồng, bờ dải, bờ nóc để trơn.
Ngăn cách giữa bên trong và hiên là một bức tường được xây sát mái, mở 3 cửa ra vào: cửa giữa rộng 1,38m, cao 2,2m, cánh cửa bằng gỗ làm theo kiểu con bài (người dân địa phương còn gọi là cửa cánh bướm). Hai cửa nhỏ hai bên có kích thước mỗi cửa rộng 0,50m, cao 2,2m, cánh cửa con bài chỉ có 1 cánh bằng gỗ. Ở hai bên cửa giữa ra vào được đắp hai tượng võ sĩ trong tư thế cầm gươm đứng gác nghiêm trang.
Hậu cung: là một ngôi nhà nằm vuông góc với Tiền đường, cấu trúc 1 gian, có kích thước chiều dài 2,4m, chiều sâu 3,65m.
Kết cấu của mái trong và mái ngoài đều cuốn vòm đổ bê tông cốt thép để thông với nhà Tiền đường được mở cửa ra vào ở 2 bên có kích thước chiều rộng 0,48m, cao 1,85m.
Nhìn chung: Di tích Đền Cùng là một công trình được xây dựng có kiểu dáng kiến trúc truyền thống nhưng kết cấu đơn giản. Phần mộc, được bào trơn đóng bén, không có chạm khắc, vật liệu kém bền vững, phần ngoã là vật liệu sử dụng gạch, ngói, tường bao kém bền vững. Tuy vậy, đây lại là một địa điểm thờ cúng linh thiêng, nhiều người trong vùng đến tế lễ, cầu cúng, vì thế về mặt tinh thần nó là yếu tố quan trọng, không thể thiếu được trong đời sống tín ngưỡng của người dân Vùng này.
Bài trí đồ thờ:
Nhà Hậu cung: Ban thờ ở nhà Hậu cung được xây gạch, trát vữa xi măng gồm 2 bệ thờ: bệ trên kích thước dài 2,4m, chiều rộng 0,62m, cao 0,17m, là nơi đặt 3 pho tượng Tam toà Thánh Mẫu có kích thước bằng nhau (cao 1m, rộng 0,2m); bệ dưới kích thước dài 1,67m, chiều rộng 0,87m, cao 1,3m. Phía dưới đặt 2 độc bình sứ cổ có kích thước cao 0,54m, đường kính thân 0,40m, đường kính miệng 0,20m. Tiếp đó đặt 03 bát hương (1 bát to ở giữa, 2 bát nhỏ 2 bên), 2 chân nến đồng và 1 hộp gỗ).
Nhà Tiền đường: Ban thờ giữa: bệ thờ xây gạch, trát xi măng, có kích thước chiều rộng 1,1m, cao 1,16m, dày 1,3m.
Phía trong cùng đặt 3 pho tượng: tượng Hoàng Bảy (kích thước cao 0,62m, dài 0,42m, rộng 0,37m); Tượng Hoàng Mười (kích thước cao 0,86m, rộng 0,42m, dài 0,42m); tượng Hoàng Bơ (kích thước cao 0,62m, dài 0,42m, rộng 0,37m). Trên bệ thờ còn đặt một số đồ tế khí khác như: hạc đồng, bát hương sứ, lư hương đồng, mâm bồng (cũ). Ở phía dưới hạ ban có đặt 01 bát hương cổ, 2 chân nến đồng, 1 mâm bồng.
Ban thờ (bên Tả): xây gạch, đắp xi măng, ốp gạch phía ngoài có kích thước cao 1,23m, dài 1,45m, rộng 1,1m. Trên bệ thờ đặt 01 ngai thờ phía trong cùng, đây là ngai thờ và bài vị đức thánh: Thượng ngàn Đào Nguyên Công chúa Lê Mai đại vương. Ở phía ngoài đặt đài nước, chân nến, mâm bồng, bản chúc văn, bát hương thờ.
Ban thờ (bên Hữu): là nơi đặt tượng Bà chúa Thượng ngàn trong khung gỗ kính (đặt ở giữa). Tượng có kích thước cao 0,62m, rộng 0,25m. Hai bên đặt 2 pho tượng: tượng Cô Chín và tượng Cô Ba. Trên bệ thờ còn đặt một số đồ thờ như bát hương chân nến.
Nhà che bia: được xây dựng bằng gạch, trát vữa, có kích thước chiều rộng: 1,30m, cao 2,15m, dài, 1,45m. Phía trong đặt một tấm bia có kích thước cao thân 0,8m, rộng thân 0,48m, dày 0,15m, diềm bia 0,06m; trán bia rộng 0,64m, cao 0,30m, dày 0,15m. Nội dung bia nói về việc thôn Liên Sơn thờ Thánh Mẫu (một số chữ đã bị mờ).