Tên di sản : Đền An Lạc

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 38/2001/QĐ - BVHTT

Giới thiệu

Đền An Lạc hiện nay nằm trên thửa đất số 122 tới bản đồ số 04, bản đồ Q.L.R.Đ xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hoá 364 vẽ tháng 5 năm 1986.

Nhìn chung, khu đất đền có vị trí cao ráo hơn so với khu vực lân cận. Đền quay hướng Nam cũng lấy điểm tựa là núi Linh Trường. Theo các tài liệu cổ cho biết: Đền có cảnh quan độc đáo, kiến trúc của lần khởi dựng đó bao gồm: nghênh môn, bình phong, sân bài đường, tiền đường, trung đường và hậu đường. Ngoài ra còn có cả nhà tả hữu vu và các công trình bảo vệ khác. Dấu vết kiến trúc của lần khởi dựng này đến nay không còn gì, có chăng chỉ còn lại ở quy mô và nền móng.

Ngôi đền hiện nay theo hướng và nền móng lúc khởi dựng. Kiến trúc đền hiện còn cổng sân bái đường và điện thờ. Điện thờ hiện nay chỉ còn lại Trung đường và Hậu đường kết cấu theo kiểu chữ nhị liền mái.

Từ ngoài vào, hiện nay cổng đền mới được tu sửa nhỏ chỉ có giá trị cùng với hàng rào xung quanh để bảo vệ đền. Qua khu vực vườn cảnh là đến sân bái đường rộng 10m, dài 9m.

Trung đường mới được tôn tạo vào năm 1988. Hiện trạng xây dựng gồm 3 gian dài 7,60m, rộng 3,50m. Mặt trước tiền đường được xây dựng 3 mái vòm, cửa giữa được làm lớn hơn. Phần mái được tạo bờ nóc theo kiểu mái cong. Bờ nóc đắp một đôi rồng chầu mặt nguyệt.

Từ Trung đường vào Hậu cung có 3 khung cửa để không cách. Khung giữa rộng 1,80m, cao 1,65m, hai khung bên bằng nhau rộng 1,50m, cao 1,65m. Đảng chú ý nhất là ở trung đường có bức đại tự, được chạm đục cầu kỳ, nghệ thuật của bức chạm mang phong cách cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Gian giữa (từ ngoài vào) ở Trung đường đặt một hương án là nơi thờ “Linh phù tôn thần” tức Hoằng Lễ Lê Công Giới, hương án mang phong cách nghệ thuật đầu thế kỉ XX, được sơn son thếp vàng.

Trung đường và Hậu đường được tiếp giáp với nhau qua máng nước giữa hai mái. Hậu cung cũng là một kiến trúc 3 gian, tường hồi bít ốc, cũng qua nhiều lần trùng tu.

Hậu cung có 3 gian, bốn vì kèo, tường hồi bít ốc với kích thước không gian như sau: gian giữa rộng 2,40m. Hai gian bên bằng nhau và rộng 2,21m, chiều dài của hậu cung là 7,66m; liên kết vì kèo của hậu cung: ở hai vì hồi liên kết theo kiểu vì nóc hình vỉ ruồi, từ đầu cột cái xuống là kẻ chuyền xuống cột quân. Từ cột quân ra hiên và tường hậu là một kẻ bẩy. Trang trí ở hai vì kèo này không có gì đặc biệt. Các kẻ bẩy, nghé bẩy, kẻ chuyền, đầu quá giang và các mặt bên của các kết cấu đều được trang trí theo hình rồng, vân mây và lá dày. Nét chạm rất tỉ mỉ, sắc gọn và uyển chuyển.

Tóm lại hậu cung đền An Lạc ít chạm trổ nhưng chạm trổ rất công phu. Những người thợ Hoằng Hoá kiến tạo ngôi đền này chỉ sử dụng chạm trổ khi thật cần thiết. Hậu cung Đền An Lạc được tôn tạo vào thời Hậu Lê (thế kỉ XVIII). Không gian thờ ở Hậu cung được bày trí như sau:        

Gian chính giữa là nơi đặt Hương án và long ngai, bài vị thờ, “Quang ý Trung Đẳng thần Lê Lai”.

Gian bên tả là nơi đặt Hương án và Long ngai thờ, “Trác vĩ Thượng đẳng thần” Lê Lâm.

Gian bên hữu là nơi đặt Hương án, Long Ngai và bài vị thờ Lê Niệm và Lê Khủng.

Các đồ thờ tự tại di tích bao gồm nhiều chất liệu như: gỗ, đồ sứ, đồ đá, đồ đồng. Nhìn chung những vật này có nhiều niên đại khác nhau nhưng đều là những hiện vật có giá trị thẩm mỹ nghệ thuật cao.

Thống kê các hiện vật trong di tích:

8 đạo sắc phong thời Hậu Lê và thời Nguyễn.

1 đạo chế lụa.

1 cuốn gia phả dòng họ Lê Lai ở Ngọc Lâm sao ngày 10/6 năm Cảnh Hưng thứ 5 (1744).

1 nghè đá thế kỉ XVII – XVIII.

1 lư hương đá thế kỷ XVIII – XIX.

1 quán tẩy.

2 hương án gỗ thế kỉ XX.

4 lòng ngai thờ gỗ.

1 bức chúc văn gõ thế kỉ XIX – XX.

2 ngựa gỗ thờ.

1 hộp đựng và ống đựng sắc phong.

Hình ảnh Đền An Lạc

Đền An Lạc

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật